Bệnh tâm lý hay rối loạn tâm lý là những hội chứng không lạ nhưng không phải ai cũng hiểu rõ về chúng. Chúng ta có thể biết hội chứng ái kỷ, chống đối xã hội hay ám ảnh cưỡng chế…nhưng để nhận biết và phân biệt chính xác thì chưa chắc.
Ngày nay, sức khỏe tâm lý đang ngày càng được quan tâm như một yếu tố thiết yếu định hình chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, trong khi các chứng rối loạn lo âu hay trầm cảm đã dần trở nên quen thuộc, các chứng rối loạn nhân cách vẫn còn là khái niệm khá mơ hồ. Đây là những mô hình hành vi và cảm xúc sâu sắc kéo dài, ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách một cá nhân nhìn nhận và ứng xử với bản thân, người khác cũng như thế giới xung quanh. Bài viết này sẽ giúp bạn nhận diện 10 chứng rối loạn nhân cách phổ biến nhất cùng các triệu chứng đặc trưng để hiểu và phân biệt rõ hơn về các vấn đề tâm lý phức tạp nhưng dễ bị bỏ qua này.
Rối loạn nhân cách là một tình trạng sức khỏe tâm thần liên quan đến các kiểu suy nghĩ, hành vi, tâm trạng và mối quan hệ với người khác kéo dài, toàn diện và gây rối loạn. Những kiểu suy nghĩ, hành vi, tâm trạng và mối quan hệ này gây ra sự đau khổ đáng kể và/hoặc làm suy giảm khả năng hoạt động của một người.
Rối loạn nhân cách có thể gây ra nhận thức sai lệch, hành vi bất thường và đau khổ (Ảnh: Internet)
Tính cách đóng vai trò thiết yếu trong việc định hình con người chúng ta. Nó bao gồm sự kết hợp độc đáo của các đặc điểm — bao gồm thái độ, suy nghĩ và hành vi — cũng như cách chúng ta thể hiện những đặc điểm này trong tương tác với người khác và với thế giới xung quanh.
Rối loạn nhân cách có thể gây ra nhận thức sai lệch về thực tế, hành vi bất thường và đau khổ trong nhiều khía cạnh của cuộc sống, bao gồm công việc, các mối quan hệ và hoạt động xã hội. Ngoài ra, người mắc chứng rối loạn nhân cách có thể không nhận ra những hành vi gây phiền toái của mình hoặc tác động tiêu cực của chúng đối với người khác.
Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần (DSM-5) , ấn phẩm tham khảo tiêu chuẩn cho các bệnh tâm thần được công nhận, phân loại 10 loại rối loạn nhân cách thành ba nhóm chính (thể loại). Mỗi nhóm có các triệu chứng chung khác nhau.
Rối loạn nhân cách nhóm A
Rối loạn nhân cách nhóm A liên quan đến suy nghĩ hoặc hành vi bất thường và lập dị. Bao gồm:
Rối loạn nhân cách nhóm B
Rối loạn nhân cách nhóm B bao gồm các hành vi kịch tính và thất thường. Những người mắc các loại rối loạn này thường biểu hiện cảm xúc mãnh liệt, không ổn định và hành vi bốc đồng. Rối loạn nhân cách nhóm B bao gồm:
Rối loạn nhân cách nhóm C
Rối loạn nhân cách nhóm C liên quan đến lo lắng và sợ hãi nghiêm trọng. Chúng bao gồm:
Mọi người có thể có các triệu chứng hỗn hợp của nhiều hơn một rối loạn nhân cách.
Nguyên nhân gây ra chứng rối loạn nhân cách (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách là một trong những tình trạng sức khỏe tâm thần ít được hiểu biết nhất. Các nghiên cứu đã được thực hiện về chứng rối loạn nhân cách đã xác định được một số yếu tố có thể dẫn đến sự phát triển của chứng rối loạn nhân cách là:
Di truyền học : Các nhà khoa học đã xác định được một gen bất thường có thể là yếu tố gây ra rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế. Các nhà nghiên cứu cũng đang tìm hiểu mối liên hệ di truyền với tính hung hăng, lo lắng và sợ hãi, những đặc điểm có thể đóng vai trò trong các rối loạn nhân cách.
Thay đổi não bộ : Các nhà nghiên cứu đã xác định được những khác biệt tinh tế trong não bộ ở những người mắc một số rối loạn nhân cách. Ví dụ, những phát hiện trong các nghiên cứu về rối loạn nhân cách hoang tưởng chỉ ra sự thay đổi chức năng của hạch hạnh nhân. Hạch hạnh nhân là phần não bộ liên quan đến việc xử lý các kích thích gây sợ hãi và đe dọa. Trong một nghiên cứu về rối loạn nhân cách thể phân liệt, các nhà nghiên cứu phát hiện thấy thùy trán của não họ bị giảm thể tích.
Chấn thương thời thơ ấu : Một nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa chấn thương thời thơ ấu và sự phát triển của rối loạn nhân cách. Ví dụ, những người mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới có tỷ lệ chấn thương tình dục thời thơ ấu đặc biệt cao. Những người mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới và chống đối xã hội thường gặp vấn đề về sự thân mật và lòng tin, cả hai đều có thể liên quan đến lạm dụng và chấn thương thời thơ ấu.
Lạm dụng bằng lời nói : Trong một nghiên cứu, những người từng bị lạm dụng bằng lời nói khi còn nhỏ có nguy cơ mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới, tự luyến, ám ảnh cưỡng chế hoặc hoang tưởng cao gấp ba lần khi trưởng thành.
Yếu tố văn hóa : Yếu tố văn hóa cũng có thể đóng một vai trò trong sự phát triển của rối loạn nhân cách, thể hiện qua tỷ lệ rối loạn nhân cách khác nhau giữa các quốc gia. Ví dụ, tỷ lệ mắc rối loạn nhân cách chống đối xã hội ở Đài Loan, Trung Quốc và Nhật Bản rất thấp, trong khi tỷ lệ mắc rối loạn nhân cách nhóm C lại cao hơn đáng kể.
Rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (OCPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (Obsessive-Compulsive Personality Disorder – OCPD) là một dạng rối loạn nhân cách đặc trưng bởi sự cứng nhắc, cầu toàn cực đoan và khao khát kiểm soát mọi khía cạnh của cuộc sống. Không giống với chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD), OCPD không bao gồm những hành vi cưỡng chế để xoa dịu lo âu mà thể hiện qua phong cách sống, lối suy nghĩ và hành vi lâu dài.
Người mắc chứng OCPD thường dành sự chú ý quá mức vào các chi tiết nhỏ nhặt, quy tắc và lịch trình đến mức mất đi sự linh hoạt cần thiết trong các mối quan hệ và công việc. Họ tin rằng chỉ có một cách “đúng đắn” để làm mọi việc và thường cảm thấy khó chịu, lo lắng hoặc tức giận nếu mọi thứ không diễn ra đúng như kế hoạch.
Người mắc chứng OCPD thường không nhận ra rằng hành vi của họ là vấn đề. Trái lại, họ có thể tự hào về sự nguyên tắc và trách nhiệm đến mức cực đoan của bản thân, điều này khiến họ khó tìm đến sự giúp đỡ. Việc điều trị OCPD cần thời gian và sự kiên trì để áp dụng các liệu pháp trị liệu tâm lý nhằm thay đổi những niềm tin cứng nhắc và giúp người mắc chứng OCPD học cách chấp nhận sự linh hoạt trong cuộc sống.
Dấu hiệu chính của rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế là sự ám ảnh lan tỏa (ám ảnh) về trật tự, chủ nghĩa hoàn hảo, sự kiểm soát và những cách thức làm việc cụ thể. Những hành vi này khiến việc hoàn thành nhiệm vụ trở nên khó khăn và gây ra vấn đề trong các mối quan hệ.
Các triệu chứng của OCPD thường bắt đầu ở giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành. Người mắc chứng rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (OCPD) có thể:
Nhìn bề ngoài, người mắc OCPD thường có vẻ tự tin, ngăn nắp và đạt thành tích cao. Những tiêu chuẩn khắt khe của họ thậm chí có thể có lợi cho họ trong một số công việc nhất định. Tuy nhiên, việc không thể thỏa hiệp hoặc thay đổi hành vi thường ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ của họ.
Mặc dù nghe có vẻ giống nhau, nhưng rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (OCPD) và rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) là hai tình trạng khác nhau.
OCD là một rối loạn lo âu , trong đó bạn thường xuyên có những suy nghĩ không mong muốn và xâm nhập (ám ảnh) khiến bạn thực hiện các hành vi lặp đi lặp lại (cưỡng chế). Ví dụ về hành vi cưỡng chế bao gồm bật công tắc đèn một số lần nhất định hoặc rửa tay liên tục.
Người mắc chứng OCD thường nhận thức được tình trạng này gây ra hành vi của họ và chấp nhận rằng họ cần sự trợ giúp chuyên môn để điều trị. Người mắc chứng OCPD thường ít hoặc không có nhận thức về hành vi của mình.
Rối loạn nhân cách ái kỷ (NPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách ái kỷ (Narcissistic Personality Disorder – NPD) là một dạng rối loạn nhân cách thể hiện qua cảm giác tự cho bản thân đặc biệt và vượt trội hơn người khác cùng với nhu cầu được ngưỡng mộ và công nhận. Người mắc NPD thường sử dụng người khác để củng cố giá trị của bản thân nhưng lại thiếu đi sự đồng cảm thật sự. Họ có thể quyến rũ, khéo léo trong giao tiếp xã hội nhưng mối quan hệ của họ thường dễ đổ vỡ khi không thỏa mãn nhu cầu được tán dương.
NPD lấy tên từ Narcissus, một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp. Theo thần thoại, Narcissus bị ám ảnh bởi vẻ đẹp của chính mình đến mức không thể ngừng nhìn hình ảnh phản chiếu của mình trong một hồ nước. Chàng không làm gì khác ngoài việc nhìn chằm chằm vào hình ảnh phản chiếu đó cho đến khi chết.
Mặc dù mọi người thường liên hệ thuật ngữ “ái kỷ” với ngoại hình — giống như trong truyền thuyết — nhưng NPD không chỉ liên quan đến ngoại hình. Nó còn bao gồm các đặc điểm hoặc khả năng khác mà bạn có, chẳng hạn như trí thông minh, sức hút, kỹ năng nghệ thuật, khả năng thể thao, sự giàu có, quyền lực, thành công, v.v.
Các triệu chứng của NPD đều xoay quanh suy nghĩ, cảm xúc và hành động. Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ , phiên bản sửa đổi lần thứ năm (còn được gọi là “DSM-5-TR
” hoặc đơn giản là “DSM-5®”) có một danh sách chín triệu chứng của NPD. Đối với một số người khác, các triệu chứng thuộc các tiêu chí này có thể trông giống như sau:
1. Cảm giác tự tôn thái quá.
2. Thường xuyên tưởng tượng về việc có hoặc xứng đáng với: Thành công, quyền lực, trí thông minh, sắc đẹp, tình yêu của mọi người, sự tự hoàn thiện.
3. Niềm tin vào sự vượt trội
4. Nhu cầu được ngưỡng mộ
5. Quyền được hưởng
6. Sẵn sàng lợi dụng người khác
7. Thiếu sự đồng cảm
8. Thường xuyên ghen tị
9. Sự kiêu ngạo
Rối loạn nhân cách ranh giới (BPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách ranh giới (BPD) là một tình trạng sức khỏe tâm thần ảnh hưởng đến khả năng điều chỉnh cảm xúc của bạn. Bạn có thể trải qua những giai đoạn cảm xúc mãnh liệt và thường không thể kiểm soát sau một sự kiện kích hoạt. Kết quả là, nó có thể ảnh hưởng đến cách bạn nhìn nhận bản thân và khiến bạn hành động bốc đồng, từ đó làm gián đoạn các mối quan hệ trong cuộc sống.
Trải nghiệm của mỗi người với rối loạn nhân cách ranh giới là khác nhau. Bạn có thể không nhìn nhận bản thân một cách tích cực hoặc tự tin. Bạn có thể tự hủy hoại bản thân bằng cách cố tình trượt bài kiểm tra hoặc không đi làm. Bạn có thể nhìn nhận người khác một cách cực đoan và nhanh chóng thay đổi quan điểm. Bạn có thể bám víu vào người khác vì nỗi sợ bị bỏ rơi mãnh liệt. Hoặc bạn có thể lái xe liều lĩnh hoặc tự làm hại bản thân mà không nghĩ đến hậu quả. Người mắc chứng BPD có thể yêu mù quáng, rồi ngay lập tức cảm thấy bị phản bội hoặc bỏ rơi dẫn đến những phản ứng dữ dội như tức giận, hoảng loạn, thậm chí có ý định tự hại hoặc tự tử. Họ thường trải qua cảm giác trống rỗng sâu sắc và sợ hãi khi bị cô lập.
Các dấu hiệu và triệu chứng của BPD có thể dao động từ mức độ dễ kiểm soát đến rất nghiêm trọng. Chúng bao gồm bất kỳ sự kết hợp nào sau đây:
Không phải ai mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới cũng đều trải qua tất cả các triệu chứng này. Mức độ nghiêm trọng, tần suất và thời gian kéo dài của các triệu chứng là khác nhau ở mỗi người.
PPD là một trong nhóm các tình trạng được gọi là Nhóm A, hay rối loạn nhân cách lập dị. Những người mắc chứng rối loạn này có suy nghĩ hoặc hành vi bất thường và lập dị.
Rối loạn nhân cách hoang tưởng (PPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách hoang tưởng (Paranoid Personality Disorder – PPD) là chứng rối loạn nhân cách đặc trưng bởi sự nghi ngờ quá mức và thiếu tin tưởng người khác, ngay cả khi không có căn cứ rõ ràng. Người mắc chứng PPD thường trải qua cảm giác người khác đang cố tình làm hại, lừa dối hoặc phản bội mình, dẫn đến thái độ cảnh giác cao độ và phản ứng phòng thủ thái quá. Những người mắc chứng rối loạn nhân cách hoang tưởng thường không nghĩ rằng hành vi và cách suy nghĩ của họ có vấn đề.
Họ có xu hướng hiểu sai ý định của người khác, thường xuyên nghi ngờ lòng trung thành của bạn bè, người thân hoặc đồng nghiệp và khó chia sẻ thông tin cá nhân vì sợ bị lợi dụng. Sự hoài nghi này khiến họ cô lập, khó thiết lập hoặc duy trì các mối quan hệ thân thiết.
Rối loạn nhân cách hoang tưởng (PPD) là một tình trạng sức khỏe tâm thần đặc trưng bởi kiểu nghi ngờ và mất lòng tin kéo dài đối với người khác mà không có lý do chính đáng (hoang tưởng). Người mắc PPD thường tin rằng người khác đang cố gắng hạ thấp, làm hại hoặc đe dọa họ.
Người mắc chứng rối loạn nhân cách hoang tưởng (PPD) luôn cảnh giác, tin rằng người khác luôn tìm cách hạ thấp, làm hại hoặc đe dọa họ. Những niềm tin vô căn cứ này, cùng với thói quen đổ lỗi và ngờ vực, cản trở khả năng xây dựng các mối quan hệ gần gũi hoặc thậm chí là khả thi. Người mắc PPD bị hạn chế nghiêm trọng trong đời sống xã hội.
Rối loạn nhân cách phân liệt (STPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách phân liệt (Schizotypal Personality Disorder – STPD) là một dạng rối loạn nhân cách đặc trưng bởi những suy nghĩ và hành vi kỳ lạ cùng với sự khó khăn trong việc thiết lập và duy trì các mối quan hệ xã hội thân mật. Người mắc chứng STPD có xu hướng sống khép kín, xa lánh xã hội và thể hiện những niềm tin, nhận thức hoặc cách giao tiếp không giống với người bình thường.
Họ có thể tin vào những hiện tượng siêu nhiên, tin rằng bản thân đọc vị được người khác hoặc cho rằng các sự kiện ngẫu nhiên có ý nghĩa đặc biệt dành riêng cho mình. Ngoài ra, họ thường có vẻ ngoài, cách ăn nói hoặc ngôn ngữ cơ thể lập dị khiến người khác khó tiếp cận hoặc khó thấu hiểu.
Người mắc chứng rối loạn nhân cách phân liệt thường cảm thấy khó chịu và đau khổ tột độ trong các tình huống xã hội. Bạn có thể gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng và duy trì các mối quan hệ thân thiết, một phần do cách hiểu sai lệch về các tương tác xã hội, cũng như hành vi xã hội kỳ quặc.
Người mắc STPD thường không nhận thức được suy nghĩ và hành vi của họ ảnh hưởng đến người khác như thế nào.
Rối loạn nhân cách chống đối xã hội (ASPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách chống đối xã hội (Antisocial Personality Disorder – ASPD) là một chứng rối loạn tâm lý nghiêm trọng, đặc trưng bởi sự thiếu đồng cảm, hành vi vi phạm chuẩn mực xã hội và coi thường quyền lợi của người khác. Người mắc chứng ASPD thường có hành vi dối trá, thao túng, xâm hại thể chất hoặc cảm xúc người khác mà không cảm thấy tội lỗi. Họ có thể rất quyến rũ và khôn khéo nhưng mục tiêu chủ yếu là trục lợi và kiểm soát đối phương.
Một số hành vi thường thấy ở người mắc chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể kể đến như:
Rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể biểu hiện khác nhau ở mỗi người. Bạn có thể có xu hướng thiên về một số hành vi nhất định hơn những hành vi khác.
Rối loạn nhân cách chống đối xã hội thường bắt đầu trước 15 tuổi. Chẩn đoán ban đầu là rối loạn hành vi . Trẻ em mắc chứng rối loạn hành vi biểu hiện hành vi hung hăng hoặc không vâng lời, có thể gây hại cho người khác. Trẻ có thể nói dối, ăn cắp, phớt lờ quy tắc hoặc bắt nạt trẻ khác. Hai hành vi là dấu hiệu cảnh báo của ASPD trong thời thơ ấu là đốt lửa và ngược đãi động vật.
Đôi khi cha mẹ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe bỏ qua các dấu hiệu của rối loạn hành vi. Các dấu hiệu này có thể trùng lặp với các tình trạng khác, chẳng hạn như:
Khi chẩn đoán rối loạn hành vi được thực hiện và bắt đầu điều trị từ sớm, có khả năng các hành vi này sẽ không tiếp tục đến tuổi trưởng thành. Nếu tiếp tục, chẩn đoán sẽ trở thành rối loạn nhân cách chống đối xã hội sau 18 tuổi.
Các nghiên cứu cho thấy các triệu chứng của ASPD thường nặng nhất ở độ tuổi từ 20 đến 40 và có xu hướng cải thiện sau tuổi 40.
Rối loạn nhân cách phân lập (SPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách phân lập (Schizoid Personality Disorder – SPD) là một dạng rối loạn nhân cách đặc trưng bởi sự tách biệt kéo dài khỏi các mối quan hệ xã hội và biểu hiện cảm xúc rất hạn chế trong các tình huống tương tác với người khác. Người mắc SPD thường không có nhu cầu gần gũi với người khác, kể cả gia đình và cảm thấy thoải mái khi sống cô lập.
Không giống như người nhút nhát hoặc tránh né vì lo lắng, người mắc chứng SPD thật sự không cảm thấy hứng thú với việc kết nối xã hội. Họ có xu hướng sống nội tâm, lặng lẽ và thường được mô tả là “lạnh lùng”, “thờ ơ” hoặc “khó gần”. Mặc dù họ vẫn có thể làm việc hiệu quả trong môi trường độc lập nhưng các mối quan hệ thân mật gần như không tồn tại.
Đặc điểm chính của chứng rối loạn nhân cách phân liệt là kiểu tách biệt liên tục và không quan tâm đến việc hình thành và duy trì các mối quan hệ xã hội.
Một người mắc chứng rối loạn nhân cách phân lập thường:
Rối loạn nhân cách tránh né (AvPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách tránh né (Avoidant Personality Disorder – AvPD) là một dạng rối loạn tâm lý đặc trưng bởi sự nhạy cảm cao độ với sự từ chối và phê bình, khiến người mắc phải luôn lo sợ bị đánh giá và có xu hướng né tránh các mối quan hệ xã hội, dù bản thân vẫn rất khao khát được kết nối.
Không giống người hướng nội đơn thuần, người mắc AvPD không tránh xa xã hội vì không thích giao tiếp, mà vì nỗi lo bị từ chối hoặc xem thường mạnh đến mức làm tê liệt khả năng mở lòng. Họ rất nhạy cảm với cảm giác xấu hổ, thiếu tự tin, cảm thấy bản thân không đủ tốt, kém hấp dẫn hoặc kém cỏi và cực kỳ dè dặt trong các mối quan hệ thân thiết, chỉ kết thân nếu chắc chắn bản thân nhận được chấp nhận hoàn toàn.
Dấu hiệu chính của rối loạn nhân cách né tránh là nỗi sợ bị từ chối mạnh mẽ đến mức bạn chọn cách cô lập bản thân thay vì ở gần mọi người. Kiểu hành vi này có thể dao động từ nhẹ đến cực đoan.
Các dấu hiệu và hành vi khác của rối loạn nhân cách né tránh bao gồm:
Chứng rối loạn nhân cách kịch tính (Histrionic Personality Disorder – HPD) đặc trưng bởi nhu cầu nhận được sự chú ý và công nhận từ người khác. Người mắc chứng HPD thường thể hiện cảm xúc một cách thái quá, kịch tính, thậm chí phô trương để thu hút sự quan tâm. Họ có thể sử dụng ngoại hình, cách ăn mặc, giọng nói hoặc hành vi để trở thành trung tâm của mọi cuộc trò chuyện.
Mặc dù có vẻ tự tin và sôi nổi, bên trong họ lại thường thiếu ổn định cảm xúc và phụ thuộc nặng nề vào sự xác nhận từ bên ngoài. Khi không nhận được sự chú ý như mong muốn, họ có thể trở nên thất vọng, lo lắng hoặc hành xử quá đà để lấy lại sự quan tâm từ những người xung quanh.
Đặc điểm chính của rối loạn nhân cách kịch tính là thể hiện cảm xúc và tình dục quá mức, hời hợt để thu hút sự chú ý vào bản thân.
Một người mắc chứng rối loạn nhân cách kịch tính có thể:
Rối loạn nhân cách phụ thuộc (DPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách phụ thuộc (DPD) là một tình trạng sức khỏe tâm thần liên quan đến nhu cầu được người khác chăm sóc quá mức. Người mắc chứng DPD phụ thuộc vào những người thân thiết về nhu cầu tình cảm hoặc thể chất. Những người khác có thể mô tả họ là người hay đòi hỏi hoặc bám víu.
Người mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới (DPD) tin rằng họ không thể tự chăm sóc bản thân. Họ có thể gặp khó khăn khi đưa ra các quyết định hàng ngày, chẳng hạn như mặc gì hay ăn gì, nếu không có sự trấn an của người khác. Họ thường không nhận ra rằng suy nghĩ và hành vi của mình đang có vấn đề.
Họ có xu hướng xây dựng các mối quan hệ mang tính lệ thuộc, đôi khi đến mức chịu đựng sự đối xử không công bằng chỉ để không bị bỏ rơi. Dù nhận ra sự bất bình đẳng trong mối quan hệ, họ vẫn khó tách mình khỏi vì lo sợ cô đơn hoặc không đủ năng lực sống độc lập. Họ dễ dàng rơi vào trạng thái bất lực, tuyệt vọng khi một mối quan hệ dần đi đến hồi kết và tan vỡ.
Người mắc chứng rối loạn nhân cách phụ thuộc có thể có một số triệu chứng về hành vi, bao gồm:
Người mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới (DPD) có xu hướng chỉ tương tác với một số ít người mà họ phụ thuộc. Họ cũng dễ bị lạm dụng thể chất, tình dục hoặc tinh thần vì không muốn mất đi mối quan hệ đó.
Bạn không thể biết chắc chắn liệu một người có mắc chứng rối loạn nhân cách hay không trừ khi họ được chẩn đoán y tế chuyên nghiệp. Bởi vậy bạn phải hiểu rằng sự khác biệt giữa các loại tính cách và rối loạn nhân cách. Một người nhút nhát hoặc thích ở một mình không nhất thiết mắc chứng rối loạn nhân cách né tránh hoặc phân liệt.
Điều quan trọng cần nhớ là rối loạn nhân cách là một tình trạng sức khỏe tâm thần. Cũng như tất cả các tình trạng sức khỏe tâm thần khác, việc tìm kiếm sự hỗ trợ ngay khi các triệu chứng xuất hiện có thể giúp giảm thiểu những gián đoạn trong cuộc sống của bạn. Các chuyên gia sức khỏe tâm thần có thể đưa ra các kế hoạch điều trị giúp bạn kiểm soát suy nghĩ và hành vi của mình.
Ngày nay, sức khỏe tâm lý đang ngày càng được quan tâm như một yếu tố thiết yếu định hình chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, trong khi các chứng rối loạn lo âu hay trầm cảm đã dần trở nên quen thuộc, các chứng rối loạn nhân cách vẫn còn là khái niệm khá mơ hồ. Đây là những mô hình hành vi và cảm xúc sâu sắc kéo dài, ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách một cá nhân nhìn nhận và ứng xử với bản thân, người khác cũng như thế giới xung quanh. Bài viết này sẽ giúp bạn nhận diện 10 chứng rối loạn nhân cách phổ biến nhất cùng các triệu chứng đặc trưng để hiểu và phân biệt rõ hơn về các vấn đề tâm lý phức tạp nhưng dễ bị bỏ qua này.
Rối loạn nhân cách là gì?
Rối loạn nhân cách là một tình trạng sức khỏe tâm thần liên quan đến các kiểu suy nghĩ, hành vi, tâm trạng và mối quan hệ với người khác kéo dài, toàn diện và gây rối loạn. Những kiểu suy nghĩ, hành vi, tâm trạng và mối quan hệ này gây ra sự đau khổ đáng kể và/hoặc làm suy giảm khả năng hoạt động của một người.

Rối loạn nhân cách có thể gây ra nhận thức sai lệch, hành vi bất thường và đau khổ (Ảnh: Internet)
Tính cách đóng vai trò thiết yếu trong việc định hình con người chúng ta. Nó bao gồm sự kết hợp độc đáo của các đặc điểm — bao gồm thái độ, suy nghĩ và hành vi — cũng như cách chúng ta thể hiện những đặc điểm này trong tương tác với người khác và với thế giới xung quanh.
Rối loạn nhân cách có thể gây ra nhận thức sai lệch về thực tế, hành vi bất thường và đau khổ trong nhiều khía cạnh của cuộc sống, bao gồm công việc, các mối quan hệ và hoạt động xã hội. Ngoài ra, người mắc chứng rối loạn nhân cách có thể không nhận ra những hành vi gây phiền toái của mình hoặc tác động tiêu cực của chúng đối với người khác.
Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần (DSM-5) , ấn phẩm tham khảo tiêu chuẩn cho các bệnh tâm thần được công nhận, phân loại 10 loại rối loạn nhân cách thành ba nhóm chính (thể loại). Mỗi nhóm có các triệu chứng chung khác nhau.
Rối loạn nhân cách nhóm A
Rối loạn nhân cách nhóm A liên quan đến suy nghĩ hoặc hành vi bất thường và lập dị. Bao gồm:
- Rối loạn nhân cách hoang tưởng: Đặc điểm chính của tình trạng này là hoang tưởng, tức là sự ngờ vực và ngờ vực dai dẳng đối với người khác mà không có lý do chính đáng. Người mắc chứng rối loạn nhân cách hoang tưởng thường tin rằng người khác đang cố gắng hạ thấp, làm hại hoặc đe dọa họ.
- Rối loạn nhân cách phân lập: Tình trạng này được đặc trưng bởi sự xa lánh và thờ ơ thường trực trong các mối quan hệ giữa các cá nhân. Người mắc chứng rối loạn nhân cách phân liệt có phạm vi cảm xúc hạn chế khi tương tác với người khác.
- Rối loạn nhân cách phân liệt: Người mắc chứng rối loạn này thường xuyên cảm thấy khó chịu dữ dội và ít có nhu cầu về các mối quan hệ thân thiết. Các mối quan hệ có thể bị cản trở bởi quan điểm sai lệch về thực tế, mê tín dị đoan và hành vi bất thường.
Rối loạn nhân cách nhóm B
Rối loạn nhân cách nhóm B bao gồm các hành vi kịch tính và thất thường. Những người mắc các loại rối loạn này thường biểu hiện cảm xúc mãnh liệt, không ổn định và hành vi bốc đồng. Rối loạn nhân cách nhóm B bao gồm:
- Rối loạn nhân cách chống đối xã hội (ASPD): Người mắc chứng ASPD thể hiện sự thiếu tôn trọng người khác và không tuân theo các chuẩn mực hoặc quy tắc được xã hội chấp nhận. Người mắc chứng ASPD có thể vi phạm pháp luật hoặc gây tổn hại về thể chất hoặc tinh thần cho người xung quanh. Họ có thể từ chối chịu trách nhiệm về hành vi của mình và/hoặc tỏ ra coi thường hậu quả tiêu cực do hành động của mình gây ra.
- Rối loạn nhân cách ranh giới (BPD): Tình trạng này biểu hiện bằng khó khăn trong việc điều chỉnh cảm xúc, dẫn đến lòng tự trọng thấp, thay đổi tâm trạng, hành vi bốc đồng và khó khăn trong các mối quan hệ sau này.
- Rối loạn nhân cách kịch tính: Tình trạng này được đặc trưng bởi những cảm xúc mãnh liệt, không ổn định và hình ảnh bản thân bị bóp méo. Đối với những người mắc chứng rối loạn nhân cách kịch tính, lòng tự trọng của họ phụ thuộc vào sự chấp thuận của người khác chứ không phải xuất phát từ cảm giác tự trọng thực sự. Họ có một khao khát mãnh liệt được người khác chú ý, và có thể thể hiện những hành vi kịch tính và/hoặc không phù hợp để thu hút sự chú ý.
- Rối loạn nhân cách ái kỷ: Tình trạng này liên quan đến một khuôn mẫu nhất quán về cảm giác vượt trội và tự cao, nhu cầu được khen ngợi và ngưỡng mộ quá mức, và thiếu sự đồng cảm với người khác. Những suy nghĩ và hành vi này thường xuất phát từ lòng tự trọng thấp và thiếu tự tin.
Rối loạn nhân cách nhóm C
Rối loạn nhân cách nhóm C liên quan đến lo lắng và sợ hãi nghiêm trọng. Chúng bao gồm:
- Rối loạn nhân cách né tránh: Người mắc chứng rối loạn này có cảm giác bất lực mãn tính và rất nhạy cảm với việc bị người khác đánh giá tiêu cực. Mặc dù họ muốn giao tiếp với người khác, nhưng họ có xu hướng tránh giao tiếp xã hội do nỗi sợ bị từ chối mãnh liệt.
- Rối loạn nhân cách phụ thuộc: Tình trạng này được đặc trưng bởi nhu cầu liên tục và quá mức được người khác chăm sóc. Nó cũng bao gồm sự phục tùng, nhu cầu được trấn an liên tục và không có khả năng đưa ra quyết định. Người mắc chứng rối loạn nhân cách phụ thuộc thường rất gần gũi với người khác và dành nhiều nỗ lực để làm hài lòng người đó. Họ có xu hướng thể hiện hành vi thụ động, bám víu và sợ bị chia cắt.
- Rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (OCPD): Tình trạng này được đặc trưng bởi nhu cầu liên tục và cực đoan về sự ngăn nắp, cầu toàn và kiểm soát (không có chỗ cho sự linh hoạt), cuối cùng làm chậm hoặc cản trở việc hoàn thành nhiệm vụ. Nó cũng có thể ảnh hưởng đến các mối quan hệ. Đây là một tình trạng riêng biệt với rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD), được phân loại là một rối loạn lo âu . Trong khi những người mắc OCD thường nhận thức được rằng OCD đang gây ra hành vi của họ và chấp nhận rằng họ cần phải thay đổi, thì những người mắc OCPD thường ít hoặc không có nhận thức về hành vi của mình.
Mọi người có thể có các triệu chứng hỗn hợp của nhiều hơn một rối loạn nhân cách.
Nguyên nhân gây ra chứng rối loạn nhân cách

Nguyên nhân gây ra chứng rối loạn nhân cách (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách là một trong những tình trạng sức khỏe tâm thần ít được hiểu biết nhất. Các nghiên cứu đã được thực hiện về chứng rối loạn nhân cách đã xác định được một số yếu tố có thể dẫn đến sự phát triển của chứng rối loạn nhân cách là:
Di truyền học : Các nhà khoa học đã xác định được một gen bất thường có thể là yếu tố gây ra rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế. Các nhà nghiên cứu cũng đang tìm hiểu mối liên hệ di truyền với tính hung hăng, lo lắng và sợ hãi, những đặc điểm có thể đóng vai trò trong các rối loạn nhân cách.
Thay đổi não bộ : Các nhà nghiên cứu đã xác định được những khác biệt tinh tế trong não bộ ở những người mắc một số rối loạn nhân cách. Ví dụ, những phát hiện trong các nghiên cứu về rối loạn nhân cách hoang tưởng chỉ ra sự thay đổi chức năng của hạch hạnh nhân. Hạch hạnh nhân là phần não bộ liên quan đến việc xử lý các kích thích gây sợ hãi và đe dọa. Trong một nghiên cứu về rối loạn nhân cách thể phân liệt, các nhà nghiên cứu phát hiện thấy thùy trán của não họ bị giảm thể tích.
Chấn thương thời thơ ấu : Một nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa chấn thương thời thơ ấu và sự phát triển của rối loạn nhân cách. Ví dụ, những người mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới có tỷ lệ chấn thương tình dục thời thơ ấu đặc biệt cao. Những người mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới và chống đối xã hội thường gặp vấn đề về sự thân mật và lòng tin, cả hai đều có thể liên quan đến lạm dụng và chấn thương thời thơ ấu.
Lạm dụng bằng lời nói : Trong một nghiên cứu, những người từng bị lạm dụng bằng lời nói khi còn nhỏ có nguy cơ mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới, tự luyến, ám ảnh cưỡng chế hoặc hoang tưởng cao gấp ba lần khi trưởng thành.
Yếu tố văn hóa : Yếu tố văn hóa cũng có thể đóng một vai trò trong sự phát triển của rối loạn nhân cách, thể hiện qua tỷ lệ rối loạn nhân cách khác nhau giữa các quốc gia. Ví dụ, tỷ lệ mắc rối loạn nhân cách chống đối xã hội ở Đài Loan, Trung Quốc và Nhật Bản rất thấp, trong khi tỷ lệ mắc rối loạn nhân cách nhóm C lại cao hơn đáng kể.
Rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (OCPD)

Rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (OCPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (Obsessive-Compulsive Personality Disorder – OCPD) là một dạng rối loạn nhân cách đặc trưng bởi sự cứng nhắc, cầu toàn cực đoan và khao khát kiểm soát mọi khía cạnh của cuộc sống. Không giống với chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD), OCPD không bao gồm những hành vi cưỡng chế để xoa dịu lo âu mà thể hiện qua phong cách sống, lối suy nghĩ và hành vi lâu dài.
Người mắc chứng OCPD thường dành sự chú ý quá mức vào các chi tiết nhỏ nhặt, quy tắc và lịch trình đến mức mất đi sự linh hoạt cần thiết trong các mối quan hệ và công việc. Họ tin rằng chỉ có một cách “đúng đắn” để làm mọi việc và thường cảm thấy khó chịu, lo lắng hoặc tức giận nếu mọi thứ không diễn ra đúng như kế hoạch.
Người mắc chứng OCPD thường không nhận ra rằng hành vi của họ là vấn đề. Trái lại, họ có thể tự hào về sự nguyên tắc và trách nhiệm đến mức cực đoan của bản thân, điều này khiến họ khó tìm đến sự giúp đỡ. Việc điều trị OCPD cần thời gian và sự kiên trì để áp dụng các liệu pháp trị liệu tâm lý nhằm thay đổi những niềm tin cứng nhắc và giúp người mắc chứng OCPD học cách chấp nhận sự linh hoạt trong cuộc sống.
Các triệu chứng của OCPD
Dấu hiệu chính của rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế là sự ám ảnh lan tỏa (ám ảnh) về trật tự, chủ nghĩa hoàn hảo, sự kiểm soát và những cách thức làm việc cụ thể. Những hành vi này khiến việc hoàn thành nhiệm vụ trở nên khó khăn và gây ra vấn đề trong các mối quan hệ.
Các triệu chứng của OCPD thường bắt đầu ở giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành. Người mắc chứng rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (OCPD) có thể:
- Quá chú ý và nhấn mạnh vào các chi tiết, quy tắc, danh sách, thứ tự và tổ chức.
- Có tính cầu toàn gây cản trở việc hoàn thành nhiệm vụ.
- Quá tập trung vào công việc và năng suất. Điều này dẫn đến việc bỏ bê sở thích và ít dành thời gian cho những người thân yêu.
- Có sự nghi ngờ và thiếu quyết đoán quá mức.
- Quá mức thận trọng để tránh những điều mà họ cho là thất bại.
- Cứng nhắc và cố chấp trong niềm tin và cách làm việc.
- Không muốn thỏa hiệp.
- Không thể vứt bỏ những đồ vật bị hỏng hoặc vô giá trị, ngay cả khi chúng không có giá trị tình cảm.
- Gặp khó khăn khi làm việc với người khác hoặc phân công nhiệm vụ trừ khi họ đồng ý làm mọi việc chính xác như người đó muốn.
- Thường xuyên quá tập trung vào một ý tưởng, nhiệm vụ hoặc niềm tin duy nhất.
- Nhận thức mọi thứ là “đen hoặc trắng” (suy nghĩ phân cực).
- Gặp khó khăn khi đối phó với những lời chỉ trích.
- Quá chú trọng vào khuyết điểm của người khác.
Nhìn bề ngoài, người mắc OCPD thường có vẻ tự tin, ngăn nắp và đạt thành tích cao. Những tiêu chuẩn khắt khe của họ thậm chí có thể có lợi cho họ trong một số công việc nhất định. Tuy nhiên, việc không thể thỏa hiệp hoặc thay đổi hành vi thường ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ của họ.
Sự khác biệt giữa OCD và OCPD là gì?
Mặc dù nghe có vẻ giống nhau, nhưng rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (OCPD) và rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) là hai tình trạng khác nhau.
OCD là một rối loạn lo âu , trong đó bạn thường xuyên có những suy nghĩ không mong muốn và xâm nhập (ám ảnh) khiến bạn thực hiện các hành vi lặp đi lặp lại (cưỡng chế). Ví dụ về hành vi cưỡng chế bao gồm bật công tắc đèn một số lần nhất định hoặc rửa tay liên tục.
Người mắc chứng OCD thường nhận thức được tình trạng này gây ra hành vi của họ và chấp nhận rằng họ cần sự trợ giúp chuyên môn để điều trị. Người mắc chứng OCPD thường ít hoặc không có nhận thức về hành vi của mình.
Rối loạn nhân cách ái kỷ (NPD)

Rối loạn nhân cách ái kỷ (NPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách ái kỷ (Narcissistic Personality Disorder – NPD) là một dạng rối loạn nhân cách thể hiện qua cảm giác tự cho bản thân đặc biệt và vượt trội hơn người khác cùng với nhu cầu được ngưỡng mộ và công nhận. Người mắc NPD thường sử dụng người khác để củng cố giá trị của bản thân nhưng lại thiếu đi sự đồng cảm thật sự. Họ có thể quyến rũ, khéo léo trong giao tiếp xã hội nhưng mối quan hệ của họ thường dễ đổ vỡ khi không thỏa mãn nhu cầu được tán dương.
NPD lấy tên từ Narcissus, một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp. Theo thần thoại, Narcissus bị ám ảnh bởi vẻ đẹp của chính mình đến mức không thể ngừng nhìn hình ảnh phản chiếu của mình trong một hồ nước. Chàng không làm gì khác ngoài việc nhìn chằm chằm vào hình ảnh phản chiếu đó cho đến khi chết.
Mặc dù mọi người thường liên hệ thuật ngữ “ái kỷ” với ngoại hình — giống như trong truyền thuyết — nhưng NPD không chỉ liên quan đến ngoại hình. Nó còn bao gồm các đặc điểm hoặc khả năng khác mà bạn có, chẳng hạn như trí thông minh, sức hút, kỹ năng nghệ thuật, khả năng thể thao, sự giàu có, quyền lực, thành công, v.v.
Triệu chứng của rối loạn nhân cách ái kỷ
Các triệu chứng của NPD đều xoay quanh suy nghĩ, cảm xúc và hành động. Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ , phiên bản sửa đổi lần thứ năm (còn được gọi là “DSM-5-TR

1. Cảm giác tự tôn thái quá.
- Đánh giá quá cao khả năng của mình hoặc đặt ra những tiêu chuẩn quá cao một cách vô lý.
- Khoe khoang hoặc phóng đại thành tích của mình.
2. Thường xuyên tưởng tượng về việc có hoặc xứng đáng với: Thành công, quyền lực, trí thông minh, sắc đẹp, tình yêu của mọi người, sự tự hoàn thiện.
3. Niềm tin vào sự vượt trội
- Nghĩ rằng mình đặc biệt hoặc độc đáo.
- Tin rằng họ chỉ nên kết giao với những người mà họ cho là xứng đáng.
4. Nhu cầu được ngưỡng mộ
- Lòng tự trọng mong manh.
- Thường xuyên tự nghi ngờ, tự chỉ trích hoặc cảm thấy trống rỗng.
- Sự bận tâm muốn biết người khác nghĩ gì về mình.
- Yêu cầu lời khen.
5. Quyền được hưởng
- Cảm giác tự tôn quá mức.
- Mong đợi sự đối xử thuận lợi (ở mức độ không hợp lý).
- Tức giận khi mọi người không chiều chuộng hoặc xoa dịu họ.
6. Sẵn sàng lợi dụng người khác
- Có ý thức hoặc vô thức lợi dụng người khác.
- Xây dựng tình bạn hoặc mối quan hệ với những người giúp nâng cao lòng tự trọng hoặc địa vị của mình.
- Cố ý lợi dụng người khác vì mục đích ích kỷ.
7. Thiếu sự đồng cảm
- Nói những điều có thể làm tổn thương người khác.
- Xem cảm xúc, nhu cầu hoặc mong muốn của người khác là dấu hiệu của sự yếu đuối.
- Không đáp lại lòng tốt hoặc sự quan tâm mà người khác dành cho mình.
8. Thường xuyên ghen tị
- Cảm thấy ghen tị với người khác, đặc biệt là khi họ thành công.
- Mong đợi sự ghen tị từ người khác.
- Coi thường hoặc hạ thấp thành tích của người khác.
9. Sự kiêu ngạo
- Hành vi ra vẻ bề trên.
- Có hành vi kiêu ngạo hoặc khinh thường.
- Nói năng khinh thường hoặc hành động hạ thấp người khác.
Rối loạn nhân cách ranh giới (BPD)

Rối loạn nhân cách ranh giới (BPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách ranh giới (BPD) là một tình trạng sức khỏe tâm thần ảnh hưởng đến khả năng điều chỉnh cảm xúc của bạn. Bạn có thể trải qua những giai đoạn cảm xúc mãnh liệt và thường không thể kiểm soát sau một sự kiện kích hoạt. Kết quả là, nó có thể ảnh hưởng đến cách bạn nhìn nhận bản thân và khiến bạn hành động bốc đồng, từ đó làm gián đoạn các mối quan hệ trong cuộc sống.
Trải nghiệm của mỗi người với rối loạn nhân cách ranh giới là khác nhau. Bạn có thể không nhìn nhận bản thân một cách tích cực hoặc tự tin. Bạn có thể tự hủy hoại bản thân bằng cách cố tình trượt bài kiểm tra hoặc không đi làm. Bạn có thể nhìn nhận người khác một cách cực đoan và nhanh chóng thay đổi quan điểm. Bạn có thể bám víu vào người khác vì nỗi sợ bị bỏ rơi mãnh liệt. Hoặc bạn có thể lái xe liều lĩnh hoặc tự làm hại bản thân mà không nghĩ đến hậu quả. Người mắc chứng BPD có thể yêu mù quáng, rồi ngay lập tức cảm thấy bị phản bội hoặc bỏ rơi dẫn đến những phản ứng dữ dội như tức giận, hoảng loạn, thậm chí có ý định tự hại hoặc tự tử. Họ thường trải qua cảm giác trống rỗng sâu sắc và sợ hãi khi bị cô lập.
Các triệu chứng của rối loạn nhân cách ranh giới
Các dấu hiệu và triệu chứng của BPD có thể dao động từ mức độ dễ kiểm soát đến rất nghiêm trọng. Chúng bao gồm bất kỳ sự kết hợp nào sau đây:
- Sợ bị bỏ rơi: Bạn có thể cảm thấy những cảm xúc rất mạnh mẽ khi ở một mình. Điều này có thể khiến bạn tìm kiếm người thân yêu hoặc đẩy mọi người ra xa để tránh bị từ chối.
- Mối quan hệ không ổn định: Các mối quan hệ lành mạnh có thể khó quản lý vì bạn có thể nhanh chóng thay đổi quan điểm về ai đó từ yêu sang ghét một cách khó lường.
- Rối loạn nhận dạng: Bạn có thể có cái nhìn tiêu cực về bản thân. Bạn có thể đột nhiên thay đổi cách người khác nhìn nhận mình bằng cách chọn một nhóm bạn mới, sở thích mới hoặc quan điểm mới.
- Hành vi bốc đồng: Bạn có thể hành động mà không nghĩ đến hậu quả, chẳng hạn như lái xe quá tốc độ cho phép, chi tiêu quá mức hoặc sử dụng quá nhiều chất gây nghiện .
- Ý định tự tử: Bạn có thể công khai nói về hoặc đe dọa hành vi tự tử với người khác hoặc thực hiện hành vi tự làm hại bản thân .
- Thay đổi tâm trạng: Bạn có thể cảm thấy những cảm xúc mãnh liệt như tức giận không thể kiểm soát, sợ hãi, lo lắng, căm ghét, buồn bã và yêu thương. Những tâm trạng này thay đổi thường xuyên và nhanh chóng. Chúng thường chỉ kéo dài vài giờ và hiếm khi quá vài ngày.
- Cảm thấy trống rỗng: Bạn có thể liên tục cảm thấy buồn bã, chán nản hoặc không được thỏa mãn. Cảm giác vô giá trị và tự ghét bản thân cũng rất phổ biến.
- Tức giận dữ dội: Bạn có thể gặp khó khăn trong việc kiểm soát tính khí. Điều này có thể dẫn đến đánh nhau hoặc thường xuyên bùng nổ. Bạn có thể cảm thấy xấu hổ hoặc tội lỗi sau đó.
- Sự phân ly liên quan đến căng thẳng: Căng thẳng quá mức có thể gây ra những suy nghĩ rời rạc, cảm giác như thoát xác và ảo giác .
Không phải ai mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới cũng đều trải qua tất cả các triệu chứng này. Mức độ nghiêm trọng, tần suất và thời gian kéo dài của các triệu chứng là khác nhau ở mỗi người.
Rối loạn nhân cách hoang tưởng (PPD)
PPD là một trong nhóm các tình trạng được gọi là Nhóm A, hay rối loạn nhân cách lập dị. Những người mắc chứng rối loạn này có suy nghĩ hoặc hành vi bất thường và lập dị.

Rối loạn nhân cách hoang tưởng (PPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách hoang tưởng (Paranoid Personality Disorder – PPD) là chứng rối loạn nhân cách đặc trưng bởi sự nghi ngờ quá mức và thiếu tin tưởng người khác, ngay cả khi không có căn cứ rõ ràng. Người mắc chứng PPD thường trải qua cảm giác người khác đang cố tình làm hại, lừa dối hoặc phản bội mình, dẫn đến thái độ cảnh giác cao độ và phản ứng phòng thủ thái quá. Những người mắc chứng rối loạn nhân cách hoang tưởng thường không nghĩ rằng hành vi và cách suy nghĩ của họ có vấn đề.
Họ có xu hướng hiểu sai ý định của người khác, thường xuyên nghi ngờ lòng trung thành của bạn bè, người thân hoặc đồng nghiệp và khó chia sẻ thông tin cá nhân vì sợ bị lợi dụng. Sự hoài nghi này khiến họ cô lập, khó thiết lập hoặc duy trì các mối quan hệ thân thiết.
Rối loạn nhân cách hoang tưởng (PPD) là một tình trạng sức khỏe tâm thần đặc trưng bởi kiểu nghi ngờ và mất lòng tin kéo dài đối với người khác mà không có lý do chính đáng (hoang tưởng). Người mắc PPD thường tin rằng người khác đang cố gắng hạ thấp, làm hại hoặc đe dọa họ.
Người mắc chứng rối loạn nhân cách hoang tưởng (PPD) luôn cảnh giác, tin rằng người khác luôn tìm cách hạ thấp, làm hại hoặc đe dọa họ. Những niềm tin vô căn cứ này, cùng với thói quen đổ lỗi và ngờ vực, cản trở khả năng xây dựng các mối quan hệ gần gũi hoặc thậm chí là khả thi. Người mắc PPD bị hạn chế nghiêm trọng trong đời sống xã hội.
Dấu hiệu của người mắc PPD
- Nghi ngờ sự cam kết, lòng trung thành hoặc độ tin cậy của người khác, tin rằng người khác đang lợi dụng hoặc lừa dối họ.
- Không muốn tâm sự với người khác hoặc tiết lộ thông tin cá nhân vì sợ thông tin đó sẽ được sử dụng để chống lại họ.
- Không tha thứ và giữ mối hận thù.
- Hãy quá nhạy cảm và không tiếp nhận lời chỉ trích.
- Đọc được ý nghĩa ẩn giấu trong những lời nhận xét ngây thơ hoặc cái nhìn bình thường của người khác.
- Nhận thấy những cuộc tấn công vào tính cách của họ mà người khác không nhận thấy.
- Luôn nghi ngờ, không có lý do chính đáng, rằng vợ/chồng hoặc người yêu của mình đang không chung thủy.
- Lạnh lùng và xa cách trong các mối quan hệ với người khác và có thể trở nên kiểm soát và ghen tuông để tránh bị phản bội.
- Không thấy được vai trò của mình trong các vấn đề hoặc xung đột, tin rằng họ luôn đúng.
- Gặp khó khăn trong việc thư giãn.
- Có thái độ thù địch, bướng bỉnh và hay cãi vã.
Rối loạn nhân cách phân liệt (STPD)

Rối loạn nhân cách phân liệt (STPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách phân liệt (Schizotypal Personality Disorder – STPD) là một dạng rối loạn nhân cách đặc trưng bởi những suy nghĩ và hành vi kỳ lạ cùng với sự khó khăn trong việc thiết lập và duy trì các mối quan hệ xã hội thân mật. Người mắc chứng STPD có xu hướng sống khép kín, xa lánh xã hội và thể hiện những niềm tin, nhận thức hoặc cách giao tiếp không giống với người bình thường.
Họ có thể tin vào những hiện tượng siêu nhiên, tin rằng bản thân đọc vị được người khác hoặc cho rằng các sự kiện ngẫu nhiên có ý nghĩa đặc biệt dành riêng cho mình. Ngoài ra, họ thường có vẻ ngoài, cách ăn nói hoặc ngôn ngữ cơ thể lập dị khiến người khác khó tiếp cận hoặc khó thấu hiểu.
Triệu chứng của rối loạn nhân cách phân liệt
Người mắc chứng rối loạn nhân cách phân liệt thường cảm thấy khó chịu và đau khổ tột độ trong các tình huống xã hội. Bạn có thể gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng và duy trì các mối quan hệ thân thiết, một phần do cách hiểu sai lệch về các tương tác xã hội, cũng như hành vi xã hội kỳ quặc.
- Có chứng lo âu xã hội nghiêm trọng và các mối quan hệ xã hội kém.
- Không có bạn bè thân thiết hoặc người tâm giao, ngoại trừ họ hàng cấp một.
- Có hành vi và phong cách kỳ lạ.
- Có suy nghĩ và lời nói kỳ lạ, chẳng hạn như sử dụng cụm từ quá trừu tượng hoặc cụ thể hoặc sử dụng cụm từ hoặc từ theo cách không bình thường.
- Có những trải nghiệm nhận thức khác thường và niềm tin kỳ diệu, chẳng hạn như nghĩ rằng họ có năng lực siêu nhiên đặc biệt.
- Hiểu sai các tình huống hoặc sự việc bình thường có ý nghĩa đặc biệt đối với họ (ý tưởng tham chiếu).
- Hay hoang tưởng và nghi ngờ ý định của người khác.
- Gặp khó khăn trong việc phản ứng phù hợp với các tín hiệu xã hội, chẳng hạn như duy trì giao tiếp bằng mắt.
- Thiếu động lực và không đạt được thành tích tốt trong học tập và công việc.
Người mắc STPD thường không nhận thức được suy nghĩ và hành vi của họ ảnh hưởng đến người khác như thế nào.
Rối loạn nhân cách chống đối xã hội (ASPD)

Rối loạn nhân cách chống đối xã hội (ASPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách chống đối xã hội (Antisocial Personality Disorder – ASPD) là một chứng rối loạn tâm lý nghiêm trọng, đặc trưng bởi sự thiếu đồng cảm, hành vi vi phạm chuẩn mực xã hội và coi thường quyền lợi của người khác. Người mắc chứng ASPD thường có hành vi dối trá, thao túng, xâm hại thể chất hoặc cảm xúc người khác mà không cảm thấy tội lỗi. Họ có thể rất quyến rũ và khôn khéo nhưng mục tiêu chủ yếu là trục lợi và kiểm soát đối phương.
Triệu chứng của rối loạn nhân cách chống đối xã hội
Một số hành vi thường thấy ở người mắc chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể kể đến như:
- Hành vi xâm lược, thù địch hoặc bạo lực với người khác.
- Hành vi liều lĩnh hoặc bốc đồng.
- Vi phạm pháp luật hoặc coi thường các quy tắc và chuẩn mực xã hội.
- Cảm thấy tức giận, mạnh mẽ hơn hoặc tốt hơn người khác.
- Sử dụng trí thông minh, sự nịnh hót và sự quyến rũ để thao túng, nói dối hoặc lừa gạt người khác để đạt được lợi ích cá nhân hoặc hưởng thụ.
- Không chịu trách nhiệm về hành động hoặc hành vi của mình
- Không tỏ ra hối hận, tiếc nuối hoặc quan tâm đến hành vi của mình
Rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể biểu hiện khác nhau ở mỗi người. Bạn có thể có xu hướng thiên về một số hành vi nhất định hơn những hành vi khác.
Rối loạn nhân cách chống đối xã hội thường bắt đầu trước 15 tuổi. Chẩn đoán ban đầu là rối loạn hành vi . Trẻ em mắc chứng rối loạn hành vi biểu hiện hành vi hung hăng hoặc không vâng lời, có thể gây hại cho người khác. Trẻ có thể nói dối, ăn cắp, phớt lờ quy tắc hoặc bắt nạt trẻ khác. Hai hành vi là dấu hiệu cảnh báo của ASPD trong thời thơ ấu là đốt lửa và ngược đãi động vật.
Đôi khi cha mẹ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe bỏ qua các dấu hiệu của rối loạn hành vi. Các dấu hiệu này có thể trùng lặp với các tình trạng khác, chẳng hạn như:
- Rối loạn thiếu chú ý/tăng động (ADHD)
- Trầm cảm
- Rối loạn chống đối thách thức (ODD)
Khi chẩn đoán rối loạn hành vi được thực hiện và bắt đầu điều trị từ sớm, có khả năng các hành vi này sẽ không tiếp tục đến tuổi trưởng thành. Nếu tiếp tục, chẩn đoán sẽ trở thành rối loạn nhân cách chống đối xã hội sau 18 tuổi.
Các nghiên cứu cho thấy các triệu chứng của ASPD thường nặng nhất ở độ tuổi từ 20 đến 40 và có xu hướng cải thiện sau tuổi 40.
Rối loạn nhân cách phân lập (SPD)

Rối loạn nhân cách phân lập (SPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách phân lập (Schizoid Personality Disorder – SPD) là một dạng rối loạn nhân cách đặc trưng bởi sự tách biệt kéo dài khỏi các mối quan hệ xã hội và biểu hiện cảm xúc rất hạn chế trong các tình huống tương tác với người khác. Người mắc SPD thường không có nhu cầu gần gũi với người khác, kể cả gia đình và cảm thấy thoải mái khi sống cô lập.
Không giống như người nhút nhát hoặc tránh né vì lo lắng, người mắc chứng SPD thật sự không cảm thấy hứng thú với việc kết nối xã hội. Họ có xu hướng sống nội tâm, lặng lẽ và thường được mô tả là “lạnh lùng”, “thờ ơ” hoặc “khó gần”. Mặc dù họ vẫn có thể làm việc hiệu quả trong môi trường độc lập nhưng các mối quan hệ thân mật gần như không tồn tại.
Triệu chứng của rối loạn nhân cách phân lập (SPD)
Đặc điểm chính của chứng rối loạn nhân cách phân liệt là kiểu tách biệt liên tục và không quan tâm đến việc hình thành và duy trì các mối quan hệ xã hội.
Một người mắc chứng rối loạn nhân cách phân lập thường:
- Không muốn hoặc không thích có mối quan hệ thân thiết, ngay cả với các thành viên trong gia đình.
- Chọn sở thích, hoạt động và công việc có tính chất đơn độc.
- Ít hoặc không có ham muốn tình dục.
- Hiếm khi trải nghiệm hoặc thể hiện cảm xúc mạnh mẽ.
- Có vẻ thờ ơ với lời khen ngợi hoặc chỉ trích của người khác.
Rối loạn nhân cách tránh né (AvPD)

Rối loạn nhân cách tránh né (AvPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách tránh né (Avoidant Personality Disorder – AvPD) là một dạng rối loạn tâm lý đặc trưng bởi sự nhạy cảm cao độ với sự từ chối và phê bình, khiến người mắc phải luôn lo sợ bị đánh giá và có xu hướng né tránh các mối quan hệ xã hội, dù bản thân vẫn rất khao khát được kết nối.
Không giống người hướng nội đơn thuần, người mắc AvPD không tránh xa xã hội vì không thích giao tiếp, mà vì nỗi lo bị từ chối hoặc xem thường mạnh đến mức làm tê liệt khả năng mở lòng. Họ rất nhạy cảm với cảm giác xấu hổ, thiếu tự tin, cảm thấy bản thân không đủ tốt, kém hấp dẫn hoặc kém cỏi và cực kỳ dè dặt trong các mối quan hệ thân thiết, chỉ kết thân nếu chắc chắn bản thân nhận được chấp nhận hoàn toàn.
Triệu chứng của rối loạn nhân cách né tránh
Dấu hiệu chính của rối loạn nhân cách né tránh là nỗi sợ bị từ chối mạnh mẽ đến mức bạn chọn cách cô lập bản thân thay vì ở gần mọi người. Kiểu hành vi này có thể dao động từ nhẹ đến cực đoan.
Các dấu hiệu và hành vi khác của rối loạn nhân cách né tránh bao gồm:
- Có hình ảnh bản thân kém, coi mình là không đủ năng lực và thấp kém.
- Quá quan tâm đến những lời chỉ trích hoặc sự không tán thành.
- Có thể miễn cưỡng tham gia vào các hoạt động của người khác trừ khi họ biết chắc rằng người khác sẽ thích họ.
- Cảm thấy lo lắng tột độ (căng thẳng) và sợ hãi trong các bối cảnh xã hội và các mối quan hệ. Điều này có thể khiến họ tránh các hoạt động hoặc công việc cần tiếp xúc với người khác.
- Cảm thấy ngại ngùng và tự ti trong các tình huống xã hội vì sợ làm sai điều gì đó hoặc cảm thấy xấu hổ.
- Có xu hướng phóng đại các vấn đề tiềm ẩn hoặc hiểu sai phản hồi là tiêu cực.
- Ít khi thử bất cứ điều gì mới hoặc mạo hiểm.
Chứng rối loạn nhân cách kịch tính (HPD)
Chứng rối loạn nhân cách kịch tính (Histrionic Personality Disorder – HPD) đặc trưng bởi nhu cầu nhận được sự chú ý và công nhận từ người khác. Người mắc chứng HPD thường thể hiện cảm xúc một cách thái quá, kịch tính, thậm chí phô trương để thu hút sự quan tâm. Họ có thể sử dụng ngoại hình, cách ăn mặc, giọng nói hoặc hành vi để trở thành trung tâm của mọi cuộc trò chuyện.
Mặc dù có vẻ tự tin và sôi nổi, bên trong họ lại thường thiếu ổn định cảm xúc và phụ thuộc nặng nề vào sự xác nhận từ bên ngoài. Khi không nhận được sự chú ý như mong muốn, họ có thể trở nên thất vọng, lo lắng hoặc hành xử quá đà để lấy lại sự quan tâm từ những người xung quanh.
Triệu chứng của rối loạn nhân cách kịch tính
Đặc điểm chính của rối loạn nhân cách kịch tính là thể hiện cảm xúc và tình dục quá mức, hời hợt để thu hút sự chú ý vào bản thân.
Một người mắc chứng rối loạn nhân cách kịch tính có thể:
- Cảm thấy không được đánh giá cao hoặc chán nản khi họ không phải là trung tâm của sự chú ý.
- Có cảm xúc thay đổi nhanh chóng và nông cạn.
- Hãy kịch tính và biểu lộ cảm xúc một cách mạnh mẽ, thậm chí đến mức khiến bạn bè và gia đình xấu hổ trước mặt mọi người.
- Có sự hiện diện “lớn hơn cuộc sống”.
- Hãy kiên trì quyến rũ và tán tỉnh.
- Quá quan tâm đến ngoại hình của họ.
- Sử dụng ngoại hình để thu hút sự chú ý bằng cách mặc quần áo sáng màu hoặc quần áo hở hang.
- Có hành vi tình dục không đúng mực với hầu hết những người họ gặp, ngay cả khi họ không bị hấp dẫn tình dục bởi những người đó.
- Nói một cách kịch tính và bày tỏ quan điểm mạnh mẽ nhưng lại thiếu sự thật hoặc chi tiết để hỗ trợ cho quan điểm của mình.
- Dễ bị ảnh hưởng bởi người khác, đặc biệt là những người mà họ ngưỡng mộ.
- Nghĩ rằng mối quan hệ của họ với người khác gần gũi hơn bình thường.
- Gặp khó khăn trong việc duy trì các mối quan hệ, thường có vẻ giả tạo hoặc hời hợt khi tương tác với người khác.
- Cần sự thỏa mãn tức thời và rất dễ chán nản hoặc thất vọng.
- Liên tục tìm kiếm sự đảm bảo hoặc chấp thuận.
Rối loạn nhân cách phụ thuộc (DPD)

Rối loạn nhân cách phụ thuộc (DPD) (Ảnh: Internet)
Rối loạn nhân cách phụ thuộc (DPD) là một tình trạng sức khỏe tâm thần liên quan đến nhu cầu được người khác chăm sóc quá mức. Người mắc chứng DPD phụ thuộc vào những người thân thiết về nhu cầu tình cảm hoặc thể chất. Những người khác có thể mô tả họ là người hay đòi hỏi hoặc bám víu.
Người mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới (DPD) tin rằng họ không thể tự chăm sóc bản thân. Họ có thể gặp khó khăn khi đưa ra các quyết định hàng ngày, chẳng hạn như mặc gì hay ăn gì, nếu không có sự trấn an của người khác. Họ thường không nhận ra rằng suy nghĩ và hành vi của mình đang có vấn đề.
Họ có xu hướng xây dựng các mối quan hệ mang tính lệ thuộc, đôi khi đến mức chịu đựng sự đối xử không công bằng chỉ để không bị bỏ rơi. Dù nhận ra sự bất bình đẳng trong mối quan hệ, họ vẫn khó tách mình khỏi vì lo sợ cô đơn hoặc không đủ năng lực sống độc lập. Họ dễ dàng rơi vào trạng thái bất lực, tuyệt vọng khi một mối quan hệ dần đi đến hồi kết và tan vỡ.
Triệu chứng của rối loạn nhân cách phụ thuộc
Người mắc chứng rối loạn nhân cách phụ thuộc có thể có một số triệu chứng về hành vi, bao gồm:
- Gặp khó khăn khi đưa ra quyết định hàng ngày, chẳng hạn như mặc gì, nếu không có sự trấn an và lời khuyên liên tục từ người khác.
- Khó khăn khi tự mình bắt đầu nhiệm vụ.
- Nỗi sợ hãi tột độ vì không thể tự chăm sóc bản thân.
- Làm hoặc tình nguyện làm những công việc khó khăn để nhận được sự hỗ trợ hoặc nuôi dưỡng từ người khác.
- Cần người khác chịu trách nhiệm về nhiều khía cạnh khác nhau trong cuộc sống của họ.
- Tránh thể hiện sự bất đồng quan điểm hoặc tạo ra xung đột trong các mối quan hệ vì sợ mất đi mối quan hệ.
- Cảm thấy không thoải mái khi ở một mình.
- Có nỗi sợ bị bỏ rơi và cảm giác bất lực khi mối quan hệ kết thúc.
Người mắc chứng rối loạn nhân cách ranh giới (DPD) có xu hướng chỉ tương tác với một số ít người mà họ phụ thuộc. Họ cũng dễ bị lạm dụng thể chất, tình dục hoặc tinh thần vì không muốn mất đi mối quan hệ đó.
Bạn không thể biết chắc chắn liệu một người có mắc chứng rối loạn nhân cách hay không trừ khi họ được chẩn đoán y tế chuyên nghiệp. Bởi vậy bạn phải hiểu rằng sự khác biệt giữa các loại tính cách và rối loạn nhân cách. Một người nhút nhát hoặc thích ở một mình không nhất thiết mắc chứng rối loạn nhân cách né tránh hoặc phân liệt.
Điều quan trọng cần nhớ là rối loạn nhân cách là một tình trạng sức khỏe tâm thần. Cũng như tất cả các tình trạng sức khỏe tâm thần khác, việc tìm kiếm sự hỗ trợ ngay khi các triệu chứng xuất hiện có thể giúp giảm thiểu những gián đoạn trong cuộc sống của bạn. Các chuyên gia sức khỏe tâm thần có thể đưa ra các kế hoạch điều trị giúp bạn kiểm soát suy nghĩ và hành vi của mình.