Tăng áp động mạch phổi (Pulmonary Arterial Hypertension – PAH) là một loại tăng huyết áp, đặc trưng bởi huyết áp cao bất thường trong các động mạch nhỏ của phổi. Khi áp lực này tăng lên, tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu qua phổi, lâu dần dẫn đến khó thở, đau ngực, chóng mặt và giảm chất lượng cuộc sống. Một số trường hợp PAH phát triển mà không xác định được nguyên nhân, nhưng cũng có khi bệnh khởi phát do các vấn đề về tim, phổi, gan, di truyền, thuốc hoặc nhiễm trùng. Dưới đây là 7 nguyên nhân gây tăng áp động mạch phổi phổ biến nhất.
Khoảng 50% ca tăng áp động mạch phổi rơi vào nhóm “vô căn”, nghĩa là không tìm thấy nguyên nhân rõ ràng. Dù cơ chế chính xác chưa được hiểu tường tận, các nhà khoa học cho rằng sự kết hợp giữa yếu tố di truyền và tác nhân môi trường có thể đóng vai trò kích hoạt bệnh.
PAH vô căn là dạng thường gặp nhất, xuất hiện ở cả nam và nữ nhưng phổ biến hơn ở phụ nữ độ tuổi từ 30-60. Vì không có yếu tố khởi phát rõ ràng, việc chẩn đoán sớm trở nên khó khăn và bệnh thường được phát hiện khi đã có triệu chứng rõ rệt.
Khoảng 50% ca tăng áp động mạch phổi rơi vào nhóm “vô căn”, nghĩa là không tìm thấy nguyên nhân rõ ràng (Ảnh: Internet)
Nguyên nhân đứng thứ hai gây PAH là các bệnh mô liên kết – nhóm bệnh tự miễn trong đó hệ miễn dịch “nhầm lẫn” và tấn công chính mô của cơ thể. Tình trạng viêm mạn tính do bệnh gây ra có thể làm tổn thương các động mạch ở phổi.
Những bệnh mô liên kết liên quan đến PAH gồm:
Bệnh mô liên kết là nguyên nhân hàng đầu gây PAH (Ảnh: Internet)
Bệnh tim bẩm sinh là dị tật tim xuất hiện ngay từ khi sinh, khiến cấu trúc hoặc dòng chảy máu trong tim và phổi bị bất thường. Khi máu chảy sai hướng hoặc không đều, áp lực trong động mạch phổi có thể tăng cao theo thời gian.
Một số dạng bệnh tim bẩm sinh liên quan đến PAH gồm:
Bệnh tim bẩm sinh có thể khiến cấu trúc hoặc dòng chảy máu trong tim và phổi bị bất thường, gây tăng áp động mạch phổi (Ảnh: Internet)
Khoảng 20% bệnh nhân tăng áp động mạch phổi có yếu tố di truyền, phổ biến nhất là đột biến gen BMPR2. Nếu một trong hai cha mẹ mang đột biến này, con có 50% khả năng thừa hưởng. Tuy nhiên, không phải ai mang gen đột biến cũng phát bệnh – thực tế chỉ khoảng 20% người mang BMPR2 biểu hiện triệu chứng PAH, cho thấy còn có sự tác động của các yếu tố môi trường hoặc gen khác.
Khoảng 20% bệnh nhân tăng áp động mạch phổi có yếu tố di truyền, phổ biến nhất là đột biến gen BMPR2 (Ảnh: Internet)
Một số loại thuốc và chất độc có thể làm tổn thương thành mạch phổi, từ đó gây PAH. Các nhóm đáng chú ý gồm:
Một số loại thuốc và chất độc có thể làm tổn thương thành mạch phổi, từ đó gây PAH (Ảnh: Internet)
Các bệnh gan mạn tính như xơ gan có thể gây tăng áp lực tĩnh mạch cửa – tình trạng huyết áp cao ở mạch máu dẫn vào gan. Từ đó, một số hợp chất độc hại mà lẽ ra được lọc bỏ có thể đi vào phổi, gây tổn thương mạch máu và dẫn đến PAH dạng đặc biệt gọi là tăng áp lực tĩnh mạch cửa phổi.
Các bệnh gan mạn tính như xơ gan có thể gây tăng áp lực tĩnh mạch cửa, gây tổn thương mạch máu và dẫn đến PAH dạng đặc biệt gọi là tăng áp lực tĩnh mạch cửa phổi (Ảnh: Internet)
Dù hiếm gặp, một số bệnh nhiễm trùng do virus hoặc ký sinh trùng có thể gây PAH, bao gồm:
một số bệnh nhiễm trùng do virus hoặc ký sinh trùng có thể gây PAH (Ảnh: Internet)
Ngoài các nguyên nhân kể trên, một số yếu tố nguy cơ có thể làm tăng khả năng mắc bệnh, gồm:
Tăng áp động mạch phổi không được điều trị có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng, thậm chí đe dọa tính mạng, chẳng hạn như:
Tăng áp động mạch phổi không được điều trị có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng (Ảnh: Internet)
Tăng áp động mạch phổi (PAH) là tình trạng huyết áp cao trong các động mạch nhỏ của phổi, có thể do nhiều nguyên nhân như vô căn, bệnh mô liên kết, bệnh tim bẩm sinh, yếu tố di truyền, thuốc/độc tố, bệnh gan hoặc nhiễm trùng. Việc nhận biết sớm nguyên nhân và điều trị kịp thời là chìa khóa để kiểm soát bệnh, ngăn ngừa biến chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Bạn có thể quan tâm:
7 nguyên nhân gây tăng áp động mạch phổi (PAH)
Tăng áp động mạch phổi vô căn
Khoảng 50% ca tăng áp động mạch phổi rơi vào nhóm “vô căn”, nghĩa là không tìm thấy nguyên nhân rõ ràng. Dù cơ chế chính xác chưa được hiểu tường tận, các nhà khoa học cho rằng sự kết hợp giữa yếu tố di truyền và tác nhân môi trường có thể đóng vai trò kích hoạt bệnh.
PAH vô căn là dạng thường gặp nhất, xuất hiện ở cả nam và nữ nhưng phổ biến hơn ở phụ nữ độ tuổi từ 30-60. Vì không có yếu tố khởi phát rõ ràng, việc chẩn đoán sớm trở nên khó khăn và bệnh thường được phát hiện khi đã có triệu chứng rõ rệt.

Khoảng 50% ca tăng áp động mạch phổi rơi vào nhóm “vô căn”, nghĩa là không tìm thấy nguyên nhân rõ ràng (Ảnh: Internet)
2. Bệnh mô liên kết
Nguyên nhân đứng thứ hai gây PAH là các bệnh mô liên kết – nhóm bệnh tự miễn trong đó hệ miễn dịch “nhầm lẫn” và tấn công chính mô của cơ thể. Tình trạng viêm mạn tính do bệnh gây ra có thể làm tổn thương các động mạch ở phổi.
Những bệnh mô liên kết liên quan đến PAH gồm:
- Xơ cứng bì hệ thống: gây cứng và co thắt mô liên kết dưới da.
- Lupus ban đỏ hệ thống (SLE): bệnh tự miễn phổ biến nhất, gây viêm và tổn thương mô liên kết, mạch máu.
- Bệnh mô liên kết hỗn hợp: tình trạng hiếm gặp, kết hợp đặc điểm của nhiều bệnh mô liên kết khác.

Bệnh mô liên kết là nguyên nhân hàng đầu gây PAH (Ảnh: Internet)
3. Bệnh tim bẩm sinh
Bệnh tim bẩm sinh là dị tật tim xuất hiện ngay từ khi sinh, khiến cấu trúc hoặc dòng chảy máu trong tim và phổi bị bất thường. Khi máu chảy sai hướng hoặc không đều, áp lực trong động mạch phổi có thể tăng cao theo thời gian.
Một số dạng bệnh tim bẩm sinh liên quan đến PAH gồm:
- Thông liên nhĩ (ASD): lỗ thông giữa hai buồng nhĩ.
- Thông liên thất (VSD): lỗ thông giữa hai buồng thất.
- Thông liên nhĩ thất: lỗ thông kết hợp giữa nhĩ và thất, kèm bất thường van tim.
- Bất thường hồi lưu tĩnh mạch phổi: mạch máu từ phổi đổ về tim sai vị trí.
- Chuyển vị đại động mạch (TGA): động mạch chủ và động mạch phổi bị hoán đổi chỗ.

Bệnh tim bẩm sinh có thể khiến cấu trúc hoặc dòng chảy máu trong tim và phổi bị bất thường, gây tăng áp động mạch phổi (Ảnh: Internet)
4. Tăng áp động mạch phổi di truyền
Khoảng 20% bệnh nhân tăng áp động mạch phổi có yếu tố di truyền, phổ biến nhất là đột biến gen BMPR2. Nếu một trong hai cha mẹ mang đột biến này, con có 50% khả năng thừa hưởng. Tuy nhiên, không phải ai mang gen đột biến cũng phát bệnh – thực tế chỉ khoảng 20% người mang BMPR2 biểu hiện triệu chứng PAH, cho thấy còn có sự tác động của các yếu tố môi trường hoặc gen khác.

Khoảng 20% bệnh nhân tăng áp động mạch phổi có yếu tố di truyền, phổ biến nhất là đột biến gen BMPR2 (Ảnh: Internet)
5. Tăng áp động mạch phổi do thuốc hoặc độc tố
Một số loại thuốc và chất độc có thể làm tổn thương thành mạch phổi, từ đó gây PAH. Các nhóm đáng chú ý gồm:
- Thuốc ức chế sự thèm ăn: như phenylpropanolamine, aminorex, dexfenfluramine (nay hầu hết đã bị cấm do tác hại).
- Fenfluramine: từng dùng để giảm cân, nay chỉ cho phép trong điều trị một số bệnh co giật hiếm gặp.
- Chất kích thích: amphetamine, methamphetamine, cocaine.
- Thuốc điều trị ung thư: dasatinib, bosutinib, một số thuốc alkyl hóa.
- Thuốc điều hòa miễn dịch: interferon-alpha, interferon-beta, leflunomide.
- Một số thảo dược/thực phẩm bổ sung: cây ban Âu, L-tryptophan.
- Điều trị viêm gan C: liệu pháp dựa trên sofosbuvir.

Một số loại thuốc và chất độc có thể làm tổn thương thành mạch phổi, từ đó gây PAH (Ảnh: Internet)
6. Tăng áp lực tĩnh mạch cửa do bệnh gan
Các bệnh gan mạn tính như xơ gan có thể gây tăng áp lực tĩnh mạch cửa – tình trạng huyết áp cao ở mạch máu dẫn vào gan. Từ đó, một số hợp chất độc hại mà lẽ ra được lọc bỏ có thể đi vào phổi, gây tổn thương mạch máu và dẫn đến PAH dạng đặc biệt gọi là tăng áp lực tĩnh mạch cửa phổi.

Các bệnh gan mạn tính như xơ gan có thể gây tăng áp lực tĩnh mạch cửa, gây tổn thương mạch máu và dẫn đến PAH dạng đặc biệt gọi là tăng áp lực tĩnh mạch cửa phổi (Ảnh: Internet)
7. Tăng áp động mạch phổi do nhiễm trùng
Dù hiếm gặp, một số bệnh nhiễm trùng do virus hoặc ký sinh trùng có thể gây PAH, bao gồm:
- HIV: cứ 200 người nhiễm HIV thì có 1–10 người phát triển PAH.
- Bệnh sán máng: trứng sán di chuyển tới phổi gây viêm và sẹo.
- Virus viêm gan B và C: ít phổ biến nhưng vẫn có liên quan.
- Virus herpes người type 8: một loại virus herpes đặc biệt.

một số bệnh nhiễm trùng do virus hoặc ký sinh trùng có thể gây PAH (Ảnh: Internet)
Ai dễ mắc tăng áp động mạch phổi hơn?
Ngoài các nguyên nhân kể trên, một số yếu tố nguy cơ có thể làm tăng khả năng mắc bệnh, gồm:
- Bệnh lý di truyền như đột biến gen BMPR2, hội chứng Down, bệnh Gaucher.
- Sử dụng ma túy (cocaine, methamphetamine).
- Sống ở vùng cao, nơi lượng oxy trong không khí thấp.
Nguy cơ biến chứng
Tăng áp động mạch phổi không được điều trị có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng, thậm chí đe dọa tính mạng, chẳng hạn như:
- Thiếu máu do hấp thụ sắt kém.
- Loạn nhịp tim do áp lực bất thường lên tim.
- Huyết khối phổi do lưu lượng máu giảm.
- Xuất huyết phổi do áp lực mạch cao.
- Suy tim phải do tim phải làm việc quá sức.

Tăng áp động mạch phổi không được điều trị có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng (Ảnh: Internet)
Tăng áp động mạch phổi (PAH) là tình trạng huyết áp cao trong các động mạch nhỏ của phổi, có thể do nhiều nguyên nhân như vô căn, bệnh mô liên kết, bệnh tim bẩm sinh, yếu tố di truyền, thuốc/độc tố, bệnh gan hoặc nhiễm trùng. Việc nhận biết sớm nguyên nhân và điều trị kịp thời là chìa khóa để kiểm soát bệnh, ngăn ngừa biến chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Bạn có thể quan tâm: