Top 15 tác giả văn học tiêu biểu ở Việt Nam

N
nhuphuong98

Top 15 tác giả văn học tiêu biểu ở Việt Nam

Việt Nam tự hào có một nền văn học phong phú và đa dạng, với nhiều nhà văn nổi tiếng đã để lại những dấu ấn sâu sắc qua nhiều thời kỳ. Dưới đây là giới thiệu về Top 15 tác giả văn học tiêu biểu ở Việt Nam.


1. Nguyễn Du

Đại thi hào Nguyễn Du. Nguồn: Internet

Đại thi hào Nguyễn Du. Nguồn: Internet

Nguyễn Du (1765 – 1820) là đại thi hào dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới và là tác giả của kiệt tác “Truyện Kiều” – tác phẩm tiêu biểu, kết tinh tinh hoa ngôn ngữ, tư tưởng và tâm hồn Việt Nam. Ông được xem là đỉnh cao của văn học trung đại Việt Nam, người đã đưa tiếng Việt và thơ Nôm đạt đến trình độ nghệ thuật bậc thầy.

Ông sinh ra tại kinh thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay) trong một gia đình quý tộc, có truyền thống khoa bảng và văn học vào bậc nhất đương thời dưới triều Lê – Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm, từng giữ chức Tể tướng trong triều đình Lê – Trịnh.

Cuộc đời ông gắn liền với thời đại đầy biến động, chế độ phong kiến suy tàn, phong trào khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Sau khi nhà Lê sụp đổ ông sống lăn lộn, vất vả ở nhiều nơi phải trải qua “mười năm gió bụi” (1786–1795). Sau khi nhà Nguyễn thành lập, ông ra làm quan cho triều Nguyễn từng giữ các chức vụ như Tri huyện, Cai bạ và được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Chính những chuyến đi và kinh nghiệm thực tế đã mở mang tầm nhìn và làm sâu sắc thêm tâm hồn ông.

Sáng tác của Nguyễn Du bao gồm cả thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm, phản ánh sâu sắc những nỗi đau và bi kịch của con người trong xã hội phong kiến, qua đó thể hiện một tầm nhìn sâu rộng và tư tưởng nhân đạo lớn. Nguyễn Du để lại một di sản văn học đồ sộ với các tác phẩm cả bằng chữ Hán và chữ Nôm, thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Trong đó nổi bật là ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. Những bài thơ thể hiện rõ tâm sự cá nhân, nỗi niềm ưu thời mẫn thế và tấm lòng nhân đạo qua những chuyến đi, những cuộc gặp gỡ. Tuy nhiên, tác phẩm vĩ đại nhất làm nên tên tuổi bất tử của Nguyễn Du chính là “Truyện Kiều” sáng tác bằng chữ Nôm gồm 3.254 câu thơ lục bát. Tác phẩm được lấy cảm hứng từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc), nhưng Nguyễn Du đã Việt hóa hoàn toàn nội dung và tinh thần, biến tác phẩm thành một thiên truyện thơ mang linh hồn Việt Nam. Qua số phận éo le của nàng Kiều – một người con gái tài sắc nhưng chịu nhiều bất hạnh, Nguyễn Du đã gửi gắm triết lý nhân sinh sâu sắc và thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả, xót thương cho những kiếp người bị chà đạp trong xã hội phong kiến.

Tư tưởng nhân đạo là điểm cốt lõi trong các sáng tác của ông, thể hiện sự đồng cảm với những số phận bất hạnh (đặc biệt là phụ nữ), phê phán xã hội phong kiến bất công đã chà đạp lên nhân phẩm và số phận người phụ nữ. Thi ca của ông đạt tới trình độ mẫu mực về ngôn ngữ và nghệ thuật, với sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố tự sự và trữ tình. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nâng tiếng Việt và thể thơ lục bát dân tộc lên đến đỉnh cao nghệ thuật, đóng góp to lớn vào việc làm giàu và trau dồi ngôn ngữ văn học dân tộc.

Bằng bút pháp nghệ thuật tinh tế, ngôn ngữ điêu luyện, cảm xúc chan chứa nhân tình, Nguyễn Du đã đưa văn học dân tộc đạt đến tầm cao mới. Ông xứng đáng là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người để lại cho đời sau một di sản văn học bất hủ, mang giá trị nhân văn và nghệ thuật vĩnh hằng.

2. Ngô Tất Tố

Nhà văn Ngô Tất Tố. Nguồn: Internet

Nhà văn Ngô Tất Tố. Nguồn: Internet

Ngô Tất Tố (1893–1954) là một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông nổi tiếng với ngòi bút hiện thực sắc sảo và tinh thần nhân đạo sâu sắc đồng thời được xem là một trong những cây bút xuất sắc của trào lưu Văn học Hiện thực phê phán chuyên viết về cuộc sống khốn khổ của người nông dân.

Ngô Tất Tố sinh năm 1893 tại làng Lộc Hà, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội). Ông xuất thân từ một gia đình Nho học nghèo khó, từ nhỏ đã được học chữ Hán, sau học thêm quốc ngữ và tiếng Pháp. Nhờ vậy, Ngô Tất Tố sớm trở thành người có học vấn uyên thâm, am hiểu sâu rộng về văn hóa dân gian, Nho học và xã hội đương thời. Khoảng năm 1926, Ngô Tất Tố chuyển ra Hà Nội làm báo. Ông là một nhà báo sắc sảo, có dũng khí với ngòi bút đấu tranh mạnh mẽ, tiến bộ trên nhiều tờ báo lớn lúc bấy giờ. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), ông tham gia Ủy ban giải phóng ở quê, sau đó ông tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc.

Sự nghiệp của Ngô Tất Tố rất đa dạng, bao gồm sáng tác văn học, báo chí, nghiên cứu và dịch thuật. Ông nổi tiếng với khả năng quan sát tinh tế, ngòi bút sắc sảo và lòng cảm thông sâu sắc đối với số phận người nông dân nghèo trong xã hội phong kiến nửa thuộc địa. Ngòi bút của ông hướng đến việc phản ánh chân thực cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột của người nông dân dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. “Tắt đèn là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, được đánh giá là một trong những cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực phê phán. Tác phẩm tố cáo tội ác của chế độ thực dân phong kiến qua việc bóc lột sưu thuế, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn và sức phản kháng tiềm tàng của người nông dân qua hình tượng chị Dậu. “Tắt đèn” là tiếng kêu thương xé lòng, đồng thời là bản cáo trạng đanh thép đối với xã hội bất công đương thời. Ngoài Tắt đèn, ông còn có nhiều tác phẩm giá trị khác như Việc làng, Lều chõng, Tập án cái đình…, phản ánh sâu sắc những mặt tối của nông thôn Việt Nam và đời sống người dân dưới ách thống trị.

Bên cạnh việc sáng tác văn học, Ngô Tất Tố còn được biết đến là một học giả uyên thâm về Nho giáo, văn học và triết học cổ. Ông có nhiều công trình nghiên cứu và dịch thuật có giá trị, góp phần truyền bá văn hóa phương Đông. Ông đã dịch và chú giải nhiều tác phẩm kinh điển của Trung Quốc như Kinh Dịch, Tam quốc diễn nghĩa, Luận ngữ, Mặc Tử,… đóng góp lớn vào việc truyền bá và nghiên cứu văn học, triết học cổ phương Đông. Ngoài ra, ông cũng có các công trình nghiên cứu về văn học sử như Văn học đời Lý, Văn học đời Trần.

Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn hiện thực hàng đầu của Việt Nam, được mệnh danh là “nhà văn của nông dân” vì sự thấu hiểu và lòng cảm thông sâu sắc với cuộc đời người lao động đồng thời khám phá và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp, sức sống tiềm tàng và tinh thần phản kháng mạnh mẽ của họ. Ngòi bút của ông mang đậm tính hiện thực, sắc sảo, linh hoạt, kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố hiện thực và tinh thần nhân đạo, ca ngợi phẩm chất tốt đẹp và tố cáo mạnh mẽ cái ác. Ông sử dụng ngôn ngữ giàu chất dân gian, gần gũi với lời ăn tiếng nói của quần chúng tạo nên giọng văn hóm hỉnh, sâu cay nhưng cũng đầy nhân ái.

Ngô Tất Tố được xem là người đặt nền móng cho văn xuôi hiện thực phê phán Việt Nam, với phong cách nghệ thuật giản dị, chân thực, ngôn ngữ sinh động, đậm chất dân gian. Ông không chỉ là nhà văn mà còn là nhà báo, học giả, nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc, có nhiều đóng góp quan trọng cho đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam thời kỳ thuộc địa.

3. Vũ Trọng Phụng

Nhà văn Vũ Trọng Phụng. Nguồn: Internet

Nhà văn Vũ Trọng Phụng. Nguồn: Internet

Vũ Trọng Phụng là một hiện tượng độc đáo và là cây bút xuất sắc nhất của trào lưu hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, được mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc”. Dù mất sớm, ông đã để lại cho nền văn học dân tộc một di sản đồ sộ, với phong cách hiện thực sắc lạnh, trào phúng sâu cay và tinh thần nhân đạo mạnh mẽ.

Vũ Trọng Phụng sinh năm 1912 tại Hưng Yên, lớn lên ở Hà Nội trong một gia đình nghèo. Dù học vấn không cao, ông sớm bộc lộ năng khiếu văn chương và bắt đầu viết báo, viết văn từ khi còn rất trẻ. Trong quãng đời ngắn ngủi chỉ 27 năm và khoảng 9 năm cầm bút, Vũ Trọng Phụng đã để lại một di sản văn học đồ sộ và có giá trị to lớn, trở thành gương mặt tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam.

Vũ Trọng Phụng là một cây bút toàn tài, viết nhiều thể loại: tiểu thuyết, phóng sự, truyện ngắn và kịch. Các tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng là bức tranh toàn cảnh và sâu sắc về xã hội thượng lưu thành thị Việt Nam những năm 1930, với tiếng cười trào phúng, châm biếm sâu cay. Các tác phẩm nổi bật của ông có thể kể đến như Số đỏ (1936), Giông tố (1937),Vỡ đê, Làm đĩ,… Đặc biệt tác phẩm “Số đỏ” đã trở thành tiểu thuyết trào phúng bậc thầy, vạch trần xã hội tư sản thành thị giả dối, lố lăng và đồi bại. Nhân vật Xuân Tóc Đỏ trở thành hình tượng kinh điển, biểu tượng cho sự tha hóa của con người trong xã hội kim tiền.

Vũ Trọng Phụng được mệnh danh là “Ông vua phóng sự đất Bắc” vì đã nâng thể loại phóng sự điều tra lên tầm nghệ thuật, đồng thời là một tiểu thuyết gia đại tài với ngòi bút trào phúng, hiện thực sắc sảo. Văn chương của ông không né tránh cái xấu, cái tục mà đi thẳng vào bản chất đen tối của xã hội đương thời để phơi bày, phê phán và thức tỉnh lương tri con người. Ông sử dụng nghệ thuật trào phúng, châm biếm và hài hước một cách tinh tế, sâu cay, lột trần bản chất nhố nhăng, đảo điên của xã hội. Các tiểu thuyết của ông thường có cốt truyện chặt chẽ, tình huống kịch tính, bất ngờ và đầy kịch cỡm, đẩy sự giả dối của nhân vật và xã hội lên đến đỉnh điểm. Với ngôn ngữ báo chí sinh động, giàu hình ảnh kết hợp với lời văn trào lộng, tạo nên một phong cách độc đáo, không thể trộn lẫn của nhà văn Vũ Trọng Phụng.

Vũ Trọng Phụng là nhà văn hiện thực trào phúng vĩ đại, người dám nói thẳng, nói thật về xã hội đương thời. Ngòi bút của ông vừa như một con dao mổ phanh phui sự thối nát, vừa là tấm lòng nhân ái hướng về con người bị tổn thương. Dù mất sớm, nhưng Vũ Trọng Phụng đã để lại dấu ấn bất tử trong nền văn học Việt Nam hiện đại với những tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị phê phán và nhân văn cho đến hôm nay.

4. Nam Cao

Nhà văn Nam Cao. Nguồn: Internet

Nhà văn Nam Cao. Nguồn: Internet

Nam Cao (1915–1951) tên thật là Trần Hữu Tri, là một trong những nhà văn hiện thực lớn nhất của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Ông nổi tiếng với những tác phẩm đào sâu vào bi kịch tinh thần của con người, đặc biệt là người nông dân và trí thức nghèo trước Cách mạng tháng Tám.

Ông xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, từng trải qua nhiều nghề như dạy học, viết văn, làm báo nên hiểu rõ cuộc sống cơ cực của người lao động trong xã hội cũ. Chính trải nghiệm ấy đã nuôi dưỡng trong ông một ngòi bút hiện thực sâu sắc và tinh thần nhân đạo lớn lao.

Nam Cao là người có đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết hiện thực Việt Nam. Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị, tiêu biểu như: “Chí Phèo” (1941) – tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, kể về bi kịch tha hóa của người nông dân bị xã hội cũ cướp mất nhân tính. Nhân vật Chí Phèo đã trở thành biểu tượng cho thân phận người cùng khổ, khát khao được làm người lương thiện, “Lão Hạc” (1943) – tác phẩm thể hiện tình thương sâu sắc dành cho người nông dân nghèo hiền lành, nhân hậu. Ngoài ra còn có Sống mòn, Đời thừa, Trăng sáng, Một bữa no. Tất cả đều xoay quanh hai đề tài lớn: người nông dân và người trí thức nghèo.

Nam Cao đã đưa văn học hiện thực phê phán đạt đến đỉnh cao mới, đặc biệt ở phương diện nghệ thuật. Ông là bậc thầy về phân tích tâm lý nhân vật. Các nhân vật của ông hiện lên sống động qua những độc thoại nội tâm, những dòng ý nghĩ phức tạp, giằng xé giữa nhân cách và hoàn cảnh giữa khát vọng và hiện thực. Giọng văn Nam Cao thường trữ tình ngoại đề, lạnh lùng, dửng dưng nhưng chứa đựng sự xót xa chiêm nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời. Văn chương Nam Cao giàu chất triết lý và tính nhân văn, miêu tả hiện thực trần trụi nhưng không cay độc, mà chan chứa lòng thương người. Ông đặc biệt chú trọng khắc họa đời sống nội tâm, bi kịch tinh thần và khát vọng làm người của nhân vật, điều làm nên chiều sâu tư tưởng hiếm có trong văn học Việt Nam giai đoạn đó.

Nam Cao được đánh giá là một trong những nhà văn đã hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết hiện đại Việt Nam, với những tác phẩm mang giá trị triết lý và nhân văn lớn lao. Ông được xem là người mở đường cho văn xuôi hiện đại Việt Nam, nhà văn của chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc và hiện thực sắc bén, luôn trăn trở về giá trị con người và lẽ sống.

5. Nguyễn Công Hoan

Nhà văn Nguyễn Công Hoan. Nguồn: Internet

Nhà văn Nguyễn Công Hoan. Nguồn: Internet

Nguyễn Công Hoan (1903 – 1977) là một trong những cây bút hiện thực phê phán hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại, nổi tiếng với giọng văn trào phúng sắc sảo, giàu tính chiến đấu và tinh thần nhân đạo sâu sắc. Ông được xem là “người mở đường cho văn học hiện thực Việt Nam” trước Cách mạng tháng Tám 1945.

Nguyễn Công Hoan xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống hiếu học, sớm được tiếp xúc với chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm (1926), làm nghề dạy học ở nhiều nơi cho đến Cách mạng tháng Tám. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia công tác văn hóa, báo chí trong quân đội và gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông là Chủ tịch đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam (nhiệm kỳ 1957–1963)

Về nghệ thuật, Nguyễn Công Hoan được đánh giá là ngọn cờ đầu cho thể loại truyện ngắn hiện thực Việt Nam. Ông có khoảng 200 truyện ngắn và hơn 10 tiểu thuyết, chủ yếu phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám và được đánh giá cao về nghệ thuật xây dựng cốt truyện độc đáo, hấp dẫn, thắt mở bất ngờ và lối dẫn dắt khéo léo. Co thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu như “Kép Tư Bền” (1935) – truyện nổi tiếng nhất của ông, kể về một diễn viên phải nén đau khổ riêng để diễn cười trên sân khấu, thể hiện bi kịch của người nghệ sĩ trong xã hội cũ, “Bước đường cùng” (1938) – tác phẩm nổi bật nhất, thể hiện bi kịch của người nông dân bị đẩy đến con đường cùng bởi cường hào, địa chủ và chế độ thực dân. Ngoài ra còn có “Lá ngọc cành vàng”, “Tắt lửa lòng”,…

Phong cách của ông nổi bật với hiện thực phê phán sắc sảo. Ông dùng ngòi bút để vạch trần và đả kích mạnh mẽ sự bất công, thối nát của xã hội thực dân nửa phong kiến, đặc biệt là sự nghèo khổ của người nông dân và tầng lớp tiểu tư sản trí thức. Yếu tố trào phúng, hài hước là đặc trưng lớn nhất trong văn ông. Tiếng cười của Nguyễn Công Hoan sắc lạnh, chua cay, vạch trần bản chất thối nát, bất công của xã hội thực dân nửa phong kiến. Ông thường sử dụng ngôn ngữ đại chúng, giản dị, gần gũi với đời sống nhưng rất tinh tế và giàu tính biểu cảm. Truyện của Nguyễn Công Hoan thường rất ngắn gọn, súc tích, có cốt truyện được dẫn dắt tài tình, giàu kịch tính và thường có cái kết bất ngờ, đột ngột gây ấn tượng mạnh cho người đọc.

Nguyễn Công Hoan được coi là người mở đường cho thể loại truyện ngắn hiện thực trào phúng ở Việt Nam. Ông có ảnh hưởng sâu rộng tới nhiều thế hệ nhà văn sau này. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ thuật (đợt 1) cho những đóng góp to lớn của mình đối với nền văn học dân tộc. Nguyễn Công Hoan có vị trí quan trọng không chỉ vì những tác phẩm có giá trị hiện thực sâu sắc mà còn vì ông đã định hình và nâng tầm thể loại truyện ngắn châm biếm trong văn học Việt Nam.

6. Nguyễn Tuân

Nhà văn Nguyễn Tuân. Nguồn: Internet

Nhà văn Nguyễn Tuân. Nguồn: Internet

Nhà văn Nguyễn Tuân (1910–1987) là một trong những đại diện xuất sắc nhất của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, nổi tiếng với phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác và được xem là bậc thầy của thể tùy bút và ngôn ngữ tiếng Việt.

Nguyễn Tuân xuất thân trong một gia đình nhà Nho, trong bối cảnh Hán học đã suy tàn, điều này ảnh hưởng sâu sắc đến tâm hồn và phong cách văn chương của ông, luôn hoài niệm về những giá trị văn hóa cổ truyền. Ông bắt đầu nổi tiếng từ những năm 1930–1940, được coi là “người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nguyễn Tuân tiếp tục sáng tác, gắn bó với nền văn học cách mạng cho đến cuối đời.

Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, có phong cách văn chương độc đáo, không lẫn với ai. Sáng tác của ông chia làm hai giai đoạn lớn: trước Cách mạng tháng Tám 1945 và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Trước Cách mạng tháng Tám 1945 là giai đoạn Nguyễn Tuân nổi tiếng với hình ảnh người nghệ sĩ tài hoa, phóng túng, ngông nghênh. Tác phẩm của ông thể hiện tư tưởng “xê dịch”, muốn thoát khỏi sự tù túng, tầm thường của xã hội đương thời để đi tìm tự do và cái đẹp tuyệt đỉnh trong nghệ thuật và cuộc sống. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến như Vang bóng một thời (1940) gồm 12 truyện ngắn, ca ngợi vẻ đẹp tài hoa, thanh cao của con người và văn hóa xưa, là tác phẩm đưa tên tuổi Nguyễn Tuân lên hàng đầu văn đàn Việt Nam. Nguyễn Tuân hòa mình vào đời sống mới của đất nước, hướng ngòi bút vào lao động, chiến đấu, con người cách mạng. Tác phẩm tiêu biểu của ông trong giai đoạn này có thể kể đến như Sông Đà (1960) tập tùy bút nổi tiếng nhất, miêu tả thiên nhiên hùng vĩ và người lao động Tây Bắc với ngôn ngữ tài hoa, giàu chất tạo hình.

Nguyễn Tuân được xem là bậc thầy tùy bút và là người có đóng góp to lớn trong việc làm giàu và hiện đại hóa ngôn ngữ văn xuôi tiếng Việt, ông có phong cách độc đáo bậc nhất trong văn học Việt Nam. Ngôn ngữ của ông giàu hình ảnh, chính xác, gợi cảm; câu văn tinh luyện, điêu luyện như một nghệ nhân ngôn từ. Ông nhìn cuộc sống qua lăng kính thẩm mỹ dù viết về quá khứ hay hiện tại, ông đều tìm kiếm vẻ đẹp, sự tài hoa và độc đáo của con người. Nguyễn Tuân khẳng định cái tôi nghệ sĩ tự do, luôn khao khát khám phá và sáng tạo. Văn của ông kết hợp tinh tế giữa tri thức văn hóa sâu rộng, cảm xúc tinh tế và quan sát sắc sảo. Văn chương Nguyễn Tuân thể hiện vốn hiểu biết sâu rộng ở nhiều lĩnh vực như lịch sử, địa lý, hội họa, điêu khắc, sân khấu, thể thao… Ông vận dụng tri thức từ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tạo hình tượng, làm cho câu văn giàu chất thơ, chất điện ảnh, chất nhạc họa. Nguyễn Tuân cũng được xem là bậc thầy trong việc sử dụng và sáng tạo ngôn ngữ tiếng Việt. Văn ông giàu có, phong phú, kết hợp nhuần nhuyễn vốn từ Hán -Việt cổ kính với ngôn ngữ hiện đại tạo nên những câu văn dài, co duỗi nhịp nhàng, đầy chất thơ và giàu hình ảnh, âm thanh.

Nguyễn Tuân là một hiện tượng độc đáo trong văn học Việt Nam thế kỷ XX. Nếu Nam Cao là nhà văn của hiện thực đời thường, Nguyễn Công Hoan là bậc thầy trào phúng, thì Nguyễn Tuân là nghệ sĩ ngôn từ bậc thầy, biến mọi trang viết thành một tác phẩm nghệ thuật tinh xảo. Ông đã góp phần làm phong phú thêm diện mạo văn xuôi Việt Nam hiện đại, đặc biệt ở thể tùy bút, truyện ngắn và bút ký nghệ thuật.

7. Tô Hoài

Nhà văn Tô Hoài. Nguồn: Internet

Nhà văn Tô Hoài. Nguồn: Internet

Tô Hoài (1920 – 2014) là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, có sự nghiệp sáng tác phong phú, đa dạng và kéo dài suốt hơn bảy thập kỷ. Ông nổi tiếng với bút pháp hiện thực sinh động, ngôn ngữ giản dị, gần gũi đời thường và đặc biệt là tình yêu sâu sắc với con người, quê hương, đất nước.

Ông sinh ra tại Hà Nội, lớn lên trong một gia đình thợ thủ công nghèo ở quê ngoại làng Nghĩa Đô (nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội). Từ nhỏ ông phải sớm bươn chải, làm nhiều nghề như dạy học, vẽ quảng cáo, kế toán… trước khi đến với văn chương bằng con đường tự học và tự rèn luyện. Trải nghiệm phong phú trong đời sống giúp ông có vốn sống thực tế dồi dào, trở thành nhà văn gắn bó sâu sắc với nhân dân lao động. Năm 1943 ông gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc, sau Cách mạng ông tham gia kháng chiến và công tác văn nghệ. Ông là Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam, sau này giữ nhiều cương vị quan trọng như: Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (1957–1958), Ủy viên Ban Chấp hành Hội nhiều khóa. Đại biểu Quốc hội Việt Nam. Năm 1996, ông được Nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật đợt 1 cho nhiều tác phẩm tiêu biểu.

Tô Hoài bắt đầu viết văn từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 và hoạt động văn học liên tục suốt hơn 70 năm, là một trong những nhà văn có sự nghiệp sáng tác đồ sộ nhất Việt Nam với gần 200 đầu sách và đa dạng về thể loại như truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, hồi ký, kịch bản, tiểu luận… Ngôn ngữ của Tô Hoài không quá cầu kỳ, hoa mỹ mà thường sử dụng ngôn ngữ đời thường, nhưng lại được chắt lọc tinh tế, sinh động, giàu hình ảnh, thể hiện sự am hiểu sâu sắc về phong tục, tập quán, ngôn ngữ của nhiều vùng miền tạo nên giọng kể mộc mạc, gần gũi. Văn Tô Hoài hướng về số phận con người, cuộc sống “lấm láp rất thường” với cách nhìn chân thực, tinh tế, vừa cởi mở vừa sâu sắc về đời sống nông thôn và miền núi. Đặc biệt, ông có khả năng quan sát và miêu tả đặc biệt, nhất là khi viết về thế giới loài vật và thiên nhiên. Các tác phẩm nổi bật của ông có thể nói đến như Dế Mèn phiêu lưu ký (1941) – tác phẩm nổi tiếng nhất được dịch ra hơn 40 ngôn ngữ thể hiện ước mơ về tình bạn, lòng dũng cảm và khát vọng tự do qua đó mang đến nhiều bài học sâu sắc, Vợ chồng A Phủ (trong tập Truyện Tây Bắc) – truyện ngắn tiêu biểu về thân phận bi kịch và con đường tìm đến tự do của người dân miền núi cao,…

Tô Hoài được xem là “cây đại thụ của văn xuôi Việt Nam hiện đại”. Ông kết hợp nhuần nhuyễn tính hiện thực, tính dân tộc và tính nhân văn, để lại dấu ấn sâu đậm ở thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, hồi ký và ký sự. Với lối viết tự nhiên, sinh động và đậm chất đời, Tô Hoài đã góp phần làm giàu thêm tâm hồn Việt, đặc biệt qua hình tượng Dế Mèn, A Phủ, hay những con người bình dị trong đời sống thường nhật.

8. Hồ Xuân Hương

Thi sĩ Hồ Xuân Hương. Nguồn: Internet

Thi sĩ Hồ Xuân Hương. Nguồn: Internet

Hồ Xuân Hương là một trong những nữ thi sĩ tài hoa và cá tính bậc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam. Bà được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm” – người đã đưa tiếng Nôm dân tộc lên đỉnh cao nghệ thuật với giọng thơ độc đáo, sắc sảo và đầy sức sống. Bà được UNESCO vinh danh là Danh nhân Văn hóa Thế giới vào năm 2021.

Hồ Xuân Hương sinh ra trong một gia đình nho học, cha là Hồ Phi Diễn – một thầy đồ nổi tiếng. Bà sống vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX – cuối triều Lê và đầu triều Nguyễn, giai đoạn xã hội phong kiến Việt Nam có nhiều biến động và sự rạn nứt về lễ giáo. Cuộc đời của Hồ Xuân Hương nhiều biến động, tình duyên lận đận. Bà từng sống trong bối cảnh xã hội phong kiến nặng nề, nơi người phụ nữ bị ràng buộc bởi lễ giáo. Chính hoàn cảnh ấy đã hun đúc nên một giọng thơ vừa mạnh mẽ vừa sâu sắc, mang ý thức phản kháng hiếm thấy ở phụ nữ thời bấy giờ.

Thơ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng độc đáo, một bước đột phá trong văn học trung đại Việt Nam, vượt qua khuôn khổ gò bó của lễ giáo phong kiến. Di tác của bà hầu hết là thơ chữ Nôm nổi bật với phong cách độc đáo, mạnh mẽ và đầy cá tính. Bà là người phụ nữ đầu tiên dùng thơ ca để bênh vực, ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp, khát vọng sống, khát vọng tình yêu chính đáng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, điều hiếm thấy trong văn học trung đại. Thơ bà thể hiện sự phẫn uất sâu sắc trước những bất công và bi kịch trong xã hội cũ. Bà sử dụng ngôn ngữ bình dị, mộc mạc nhưng cực kỳ tài hoa, tinh tế thường dùng các hình ảnh có tính chất hai nghĩa (tục mà thanh), có tính trào phúng sắc sảo để châm biếm những định kiến và hủ tục. Bên canh đó, bà cũng đưa chất liệu dân gian và phồn thực vào thơ, miêu tả trực diện vẻ đẹp cơ thể và những vấn đề giới tính một cách táo bạo, sinh động, vượt qua mọi cấm kỵ của xã hội Nho giáo đồng thời sử dụng thủ pháp châm biếm, đả kích sâu cay những thói hư tật xấu, những giáo điều phong kiến và những hạng người hủ lậu, giả dối. Một số bài thơ nổi tiếng của bà là: Bánh trôi nước, Tự tình (I, II, III), Lấy chồng chung, Mời trầu,…

Hồ Xuân Hương là nữ thi sĩ kiệt xuất của văn học Việt Nam trung đại, hiếm có người phụ nữ nào đạt đến tầm ảnh hưởng như bà. Bà được xem là tiếng nói nhân đạo, phản kháng và nữ quyền sớm nhất trong thơ ca Việt Nam. Thơ Hồ Xuân Hương đã được dịch ra nhiều thứ tiếng (Anh, Pháp, Nhật…) và nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới. Năm 2011, UNESCO vinh danh Hồ Xuân Hương là “Danh nhân văn hóa thế giới” nhân kỷ niệm 240 năm ngày sinh và 200 năm ngày mất của bà.

Hồ Xuân Hương là hiện tượng độc đáo của thơ ca Việt Nam, vừa là đỉnh cao của thơ Nôm vừa là biểu tượng của tinh thần tự do, khát vọng sống và yêu của người phụ nữ. Thơ bà là tiếng nói vượt thời đại, kết hợp giữa trào phúng và trữ tình, hiện thực và nhân văn, góp phần làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc.

9. Tố Hữu

Nhà thơ Tố Hữu. Nguồn: Internet

Nhà thơ Tố Hữu. Nguồn: Internet

Nhà thơ Tố Hữu (1920–2002) là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của nền thơ ca cách mạng Việt Nam thế kỷ XX, người đã gắn bó trọn đời với sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do và chủ nghĩa xã hội. Thơ Tố Hữu là tiếng nói của lý tưởng, của tình yêu đất nước, con người và thời đại.

Tố Hữu sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, giàu truyền thống yêu nước và có truyền thống yêu văn chương. Ông sớm được nuôi dưỡng tâm hồn qua thơ ca cổ và ca dao, dân ca Huế. Ngay từ thời niên thiếu ông đã tiếp xúc với phong trào cách mạng, tham gia Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương (1937) và sau đó trở thành nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước. Cuộc đời hoạt động cách mạng của ông gắn liền với sự nghiệp thơ ca, trong đó thơ vừa là vũ khí đấu tranh vừa là lời tâm huyết của một người chiến sĩ – nghệ sĩ. Mỗi tập thơ của ông đều phản ánh một chặng đường lịch sử của đất nước.

Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, người đã đưa thơ trữ tình chính trị lên đến trình độ nghệ thuật cao. Thơ Tố Hữu mang đậm dấu ấn riêng biệt, được mệnh danh là Thơ trữ tình – chính trị lấy lý tưởng cộng sản, lẽ sống cách mạng làm nguồn cảm hứng chủ đạo. Cảm xúc cá nhân của nhà thơ hòa quyện một cách tự nhiên vào niềm vui chung của dân tộc, đất nước. Thơ ông là tiếng lòng của một chiến sĩ cách mạng, thể hiện sự hòa quyện sâu sắc giữa cái tôi cá nhân và cái ta cộng đồng. Thơ Tố Hữu thường đề cập đến những sự kiện, vấn đề trọng đại có ý nghĩa lịch sử hướng tới cái cao cả, lý tưởng của cách mạng tạo nên một bức tranh hoành tráng về cuộc chiến đấu của cả dân tộc. Thơ Tố Hữu cũng giàu chất tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, gần gũi với giọng điệu dân ca và ca Huế. Ông sử dụng thành công và nhuần nhuyễn các thể thơ truyền thống của dân tộc như lục bát, thất ngôn kết hợp với sử dụng từ ngữ và cách nói bình dị, dân dã, giàu tính nhạc điệu, dễ thuộc dễ nhớ và dễ đi vào lòng người.

Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu nhất của nền thơ ca cách mạng thế kỷ XX, người đã kết hợp hài hòa giữa cái riêng của nghệ sĩ và cái chung của dân tộc. Thơ của ông không chỉ là tài sản văn học mà còn là niềm tự hào tinh thần, đã nuôi dưỡng và cổ vũ tinh thần của nhiều thế hệ người Việt Nam trong các cuộc đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước.

10. Xuân Diệu

Nhà thơ Xuân Diệu. Nguồn: Internet

Nhà thơ Xuân Diệu. Nguồn: Internet

Xuân Diệu (1916–1985), tên thật là Ngô Xuân Diệu là một trong những nhà thơ lớn nhất của Việt Nam hiện đại, được mệnh danh là “ông hoàng của thơ tình”. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ mới (1932 – 1945) đồng thời cũng là một nhà văn, nhà phê bình, dịch giả có đóng góp to lớn cho văn học nước ta.

Xuân Diệu sinh tại xã Trảo Nha (nay là xã Đại Lộc), huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh và lớn lên ở Quy Nhơn (Bình Định). Thời kỳ trước Cách mạng (1935–1945) ông ra Hà Nội học Luật và viết báo, nhanh chóng trở thành cây bút chủ lực của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và tạo ra một luồng gió mới, hiện đại, Tây phương hóa cho thơ ca Việt Nam. Hai tập thơ đầu tay “Thơ thơ” (1938) và “Gửi hương cho gió” (1945) đã khẳng định vị trí “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới” của ông. Sau Cách mạng ông nhiệt thành tham gia cách mạng, hoạt động trong lĩnh vực văn hóa và sau đó giữ nhiều trọng trách trong Hội Nhà văn Việt Nam. Thơ ông chuyển hướng sang đề tài cách mạng, đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng vẫn giữ được chất trữ tình, say đắm của mình. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật đợt I (năm 1996).

Phong cách thơ Xuân Diệu được đánh giá là một sự cách tân táo bạo, đem đến “một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy” cho thi ca Việt Nam. Thơ ông mang tính chất lãng mạn, hiện đại và là sự kết hợp độc đáo giữa phương Đông và phương Tây. Ông mạnh dạn đề xướng cái tôi trữ tình, say đắm, khao khát sống, khao khát yêu thương một cách chân thành, vượt qua hệ thống ước lệ cũ. Ông cũng là nhà thơ đầu tiên đưa vào thơ ca một quan niệm sống “vội vàng”, tận hưởng trọn vẹn từng khoảnh khắc của tuổi trẻ, tình yêu trước sự trôi chảy nghiệt ngã của thời gian. Thơ tình của ông nồng nàn, đắm say, khai thác những cảm xúc tinh tế, trần thế của tình yêu đôi lứa. Ông nhìn thiên nhiên bằng con mắt của một người khao khát sống, khiến cảnh vật hiện lên đầy hơi ấm, xuân sắc và gắn liền với con người. Xuân Diệu có công làm mới ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, đưa vào thơ cách nói, nhịp điệu và hình ảnh mang hơi thở hiện đại. Ông sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, biểu cảm, đặc biệt là việc sử dụng động từ mạnh và lối dùng từ, đặt câu có ảnh hưởng từ thơ tượng trưng phương Tây, nhưng vẫn giữ được chất nhạc điệu tiếng Việt.

Xuân Diệu được xem là nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới, người đã thổi vào thơ Việt một luồng gió tình yêu, tuổi trẻ và khát vọng sống mãnh liệt. Thơ Xuân Diệu đã góp phần đưa thơ ca Việt Nam thoát khỏi lối ước lệ cổ điển, mở ra kỷ nguyên thơ mới mang đậm cá tính cá nhân. Ông là cầu nối giữa thơ lãng mạn và thơ cách mạng, đồng thời là biểu tượng của niềm tin vào con người và cuộc sống.

11. Chế Lan Viên

Nhà thơ Chế Lan Viên. Nguồn: Internet

Nhà thơ Chế Lan Viên. Nguồn: Internet

Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ lớn, nhà tư tưởng sâu sắc và nhà văn hóa tiêu biểu của Việt Nam thế kỷ XX. Thơ ông nổi bật bởi trí tuệ, chiều sâu triết lý, sự sáng tạo ngôn từ và tinh thần nhân văn, phản ánh những biến động lớn của lịch sử dân tộc và hành trình tư tưởng của một trí thức – nghệ sĩ.

Ông sinh ra ở Quảng Trị nhưng lớn lên và theo học ở Quy Nhơn (Bình Định) – vùng đất giàu truyền thống văn hóa và thi ca, nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn nghệ sĩ và tinh thần học vấn của ông. Từ rất sớm Chế Lan Viên đã nổi tiếng trên thi đàn với phong cách độc đáo, mang màu sắc siêu thực, tượng trưng. Ông tham gia vào phong trào Thơ Mới từ rất sớm và gây chấn động thi đàn với tập thơ đầu tay “Điêu Tàn” xuất bản năm 1937 khi ông mới 17 tuổi. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông tham gia cách mạng làm công tác văn nghệ và trở thành một cây bút chủ lực của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Ông từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Trung Trung Bộ, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam và Đại biểu Quốc hội. Năm 1996, ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật.

Phong cách nghệ thuật của Chế Lan Viên nổi bật với khuynh hướng suy tưởng – triết lý và sự giàu có về hình ảnh. Thơ ông thường đi sâu vào khám phá, lý giải các vấn đề lớn của lịch sử, dân tộc, và triết học về con người. Ông sử dụng hình ảnh thơ làm phương tiện để biểu đạt tư tưởng, làm cho thơ ông mang vẻ đẹp trí tuệ độc đáo. Ông khai thác triệt để các tương quan đối lập, sử dụng hình ảnh mang tính biểu tượng, kỳ ảo để diễn tả nội tâm và cảm xúc phức tạp.

Chế Lan Viên là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại, cùng với Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi…Ông đã góp phần đưa thơ Việt từ cảm xúc lãng mạn sang tư duy trí tuệ, phản tỉnh và triết học.

12. Hàn Mặc Tử

Nhà thơ Hàn Mặc Tử. Nguồn: Internet

Nhà thơ Hàn Mặc Tử. Nguồn: Internet

Hàn Mặc Tử là một hiện tượng độc đáo và nổi bật của phong trào Thơ Mới (1932–1945). Thơ ông là sự kết hợp giữa cảm xúc mãnh liệt, trí tưởng tượng siêu thực và khát vọng vượt thoát khỏi đau thương, mang đến cho văn học Việt Nam một tiếng nói riêng vừa thiêng liêng vừa bi thương lại vừa kỳ diệu. Cuộc đời ông tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại một di sản thi ca độc đáo, vượt thời gian.

Ông sinh ra tại Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình trong một gia đình Công giáo nghèo. Ngay từ nhỏ, Hàn Mặc Tử đã bộc lộ năng khiếu văn chương và niềm say mê thơ ca. Ông bắt đầu làm thơ từ rất sớm, chịu ảnh hưởng của thơ Đường và văn chương cổ điển, sau đó chuyển dần sang phong cách lãng mạn hiện đại mang dấu ấn riêng biệt, đậm chất siêu thực và tượng trưng.

Hàn Mặc Tử được xem là người tiên phong của dòng thơ lãng mạn hiện đại và là người khởi xướng Trường thơ Loạn. Phong cách thơ của ông rất đa dạng, phức tạp và đầy sáng tạo, được đánh giá là một hiện tượng kỳ lạ, là sự giao thoa giữa lãng mạn, tượng trưng, siêu thực và tôn giáo. Con đường thơ ông chia làm ba giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn đầu, thơ ông mang vẻ đẹp trữ tình, thuần khiết, ca ngợi vẻ đẹp trong sáng, đằm thắm của thiên nhiên và người phụ nữ Việt Nam tiêu biểu qua tập thơ Gái Quê. Giai đoạn sau, xuất phát từ nỗi đau thể xác và tinh thần do bệnh tật, Hàn Mặc Tử đi tìm một thế giới tâm linh và siêu hình để gửi gắm cảm xúc. Ông sử dụng ngôn từ lạ lẫm, hình ảnh dữ dội, ám ảnh, tượng trưng. Thơ ông bộc lộ khát vọng yêu thương và giao cảm với cõi thiêng, nhưng cũng là tiếng kêu tuyệt vọng của linh hồn cô đơn. Đây là sự kết hợp giữa nỗi đau thân xác, khao khát sống mãnh liệt, niềm tin tôn giáo và lối biểu hiện siêu thực, đầy kịch tính. Giai đoạn cuối, thơ của ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của đức tin Công giáo hướng về cõi siêu nhiên, thánh thiện, với niềm hy vọng được cứu rỗi. Hình ảnh thơ trở nên thanh khiết, siêu thoát nhưng vẫn mang nỗi buồn u uẩn, pha trộn giữa hiện thực và huyền ảo, giữa trần thế và thần linh.

Thơ Hàn Mặc Tử là sự hòa quyện giữa thực và ảo, giữa mê và tỉnh, giữa trần gian và thiên giới. Ông sáng tạo nhiều hình ảnh bất ngờ, phi lý mà ám ảnh. Thơ ông là cuộc hành trình tìm kiếm tình yêu, đức tin và sự sống vĩnh hằng. Âm điệu thơ của ông cũng rất phong phú, khi trong sáng, êm dịu; khi cuồng loạn, dữ dội, phản ánh rõ diễn biến tâm trạng phức tạp của thi sĩ.

Hàn Mặc Tử được xem là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ Mới cùng với Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư. Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng lòng của một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu người đến cháy bỏng, nhưng đồng thời cũng là sự đấu tranh dữ dội với bi kịch cuộc đời. Ông được mệnh danh là “nhà thơ của trăng và máu” – tượng trưng cho vẻ đẹp và nỗi đau hòa quyện trong thơ ca. Dù qua đời rất sớm, thơ ông để lại dấu ấn sâu đậm về nghệ thuật và tư tưởng, mở ra hướng sáng tạo mới cho thi ca Việt Nam hiện đại.

13. Nguyễn Đình Chiểu

Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Nguồn: Internet

Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Nguồn: Internet

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XIX, người được mệnh danh là “ngôi sao sáng” trên bầu trời văn học miền Nam. Ông không chỉ là một nhà văn hóa lớn của Nam Bộ, mà còn là biểu tượng của nghị lực, nhân cách và lòng trung nghĩa Việt Nam. Năm 2022, ông được UNESCO công nhận là Danh nhân Văn hóa Thế giới nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông.

Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, với các tác phẩm giàu tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước và tinh thần dân tộc. Ông chủ trương dùng văn chương để truyền bá đạo lí nhân nghĩa và chiến đấu chống kẻ thù, bảo vệ chính nghĩa. Thơ văn ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo lý và lòng yêu nước, thương dân đồng thời giàu tính nhân nghĩa, đấu tranh cho lẽ phải, ca ngợi người anh hùng và lên án kẻ bán nước. Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu như Truyện Lục Vân Tiên – tác phẩm nổi tiếng nhất truyền bá đạo lý nhân nghĩa, trung hiếu được nhân dân yêu thích, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861) – bản hùng ca bất hủ ca ngợi tinh thần chiến đấu, hy sinh oanh liệt của những người nông dân nghĩa sĩ, Ngư Tiều y thuật vấn đáp,…

Dù bị mù lòa, ông vẫn giữ vững phẩm cách thanh cao, mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân và sáng tác văn chương. Ông dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu, thể hiện lòng yêu nước, thương dân. Ông sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói của người dân Nam Bộ kết hợp với giọng thơ giàu cảm xúc, chân thành, hùng tráng đậm chất đạo đức truyền thống, xen lẫn tính hiện thực mạnh mẽ.

Nguyễn Đình Chiểu là tiêu biểu cho hình ảnh nhà nho hành đạo, thương dân, yêu nước trong giai đoạn đất nước bị xâm lược. Ông đã đưa văn học dân tộc đến gần nhân dân hơn, làm phong phú thêm tiếng Việt và văn học chữ Nôm Nam Bộ. Thơ văn của ông trở thành nguồn động viên tinh thần to lớn cho các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX.

14. Thạch Lam

Nhà văn Thạch lam. Nguồn: Internet

Nhà văn Thạch lam. Nguồn: Internet

Thạch Lam là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn 1930–1945, thành viên của Tự Lực Văn Đoàn. Ông được biết đến là một cây bút có phong cách riêng biệt, nhẹ nhàng, tinh tế, giàu chất trữ tình và nhân đạo sâu sắc.

Ông sinh ra tại Hà Nội trong một gia đình trí thức, có nhiều người hoạt động văn học nổi tiếng. Từ nhỏ, Thạch Lam đã sớm bộc lộ năng khiếu văn chương. Ông là người mở đường cho lối viết truyện ngắn trữ tình, khác biệt với khuynh hướng hiện thực gay gắt hoặc lãng mạn cường điệu cùng thời. Dù mất sớm nhưng ông để lại một di sản văn học quý giá cho nền văn học dân tộc.

Phong cách văn chương của Thạch Lam độc đáo, không lẫn với các nhà văn cùng thời dù thuộc Tự Lực văn đoàn nhưng ông không đi theo lối lãng mạn thoát ly hoàn toàn, mà có sự hòa quyện tuyệt vời giữa hiện thực và lãng mạn. Ông thường viết về những kiếp người nhỏ bé, cơ cực, những số phận hẩm hiu như phụ nữ, trẻ em, người dân phố huyện nghèo, thể hiện niềm cảm thông sâu sắc và trân trọng những vẻ đẹp tiềm ẩn, sự khao khát cuộc sống tốt đẹp trong tâm hồn họ. Nhiều truyện ngắn của ông dường như không có sự kiện kịch tính mà đi sâu vào miêu tả nội tâm nhân vật, những rung động tinh tế với những cảm xúc mong manh, mơ hồ. Lời văn Thạch Lam trong sáng, giản dị, giàu hình ảnh và nhạc điệu, thường mang âm hưởng buồn man mác, nhẹ nhàng như một lời tâm tình thủ thỉ. Ông không miêu tả cảnh vật một cách khô khan mà luôn thấm đẫm cảm xúc, biến cảnh vật thành không gian tâm trạng, giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ của cuộc sống thường nhật, ngay cả trong nghèo khó. Ông vừa bám sát hiện thực cuộc sống cơ cực vừa đi sâu vào cảm giác, tâm trạng, tạo nên một phong vị rất riêng. Những tác phẩm của ông có thể kể đến như Hà Nội băm sáu phố phường (1943) – tập tùy bút nổi tiếng với những trang viết tinh tế về văn hóa, ẩm thực và vẻ đẹp cổ kính của Hà Nội, tập truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa (1937), Nắng trong vườn,…

Thạch Lam có một trái tim nhân hậu, nhạy cảm, luôn hướng về người nghèo, những số phận nhỏ bé và bị lãng quên trong xã hội. Ông không tô hồng hiện thực, nhưng cũng không bi quan, ông nhìn cuộc sống bằng ánh mắt cảm thông và niềm tin vào con người. Tác phẩm của ông mang đến một “nỗi buồn dịu nhẹ”, giúp người đọc thức tỉnh tình thương và ý thức về giá trị của đời sống giản dị.

Thạch Lam được xem là một trong những cây bút truyện ngắn tài hoa nhất của văn học Việt Nam hiện đại, người đã đem đến cho văn xuôi một giọng điệu trữ tình, một tấm lòng nhân hậu và trân trọng vẻ đẹp bình dị của cuộc sống. Dù sự nghiệp ngắn ngủi, Thạch Lam đã để lại dấu ấn đậm nét trong văn học sử Việt Nam với những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học cao, được nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến.

15. Kim Lân

Nhà văn Kim Lân. Nguồn: Internet

Nhà văn Kim Lân. Nguồn: Internet

Kim Lân là một nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại, nổi tiếng với những trang viết mộc mạc, chân thật và đầy nhân ái về cuộc sống người nông dân Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Ông được xem là “nhà văn của làng quê Việt Nam”, bởi gần như toàn bộ sáng tác của ông đều gắn bó với nông thôn và người lao động nghèo.

Ông xuất thân trong một gia đình nghèo, không được học cao, từ nhỏ đã sớm phải lao động kiếm sống nhưng có năng khiếu văn chương và yêu thích nghệ thuật. Kim Lân bắt đầu sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945 và nhanh chóng khẳng định tên tuổi với nhiều truyện ngắn xuất sắc về người nông dân nghèo, thấm đượm tình người và lòng nhân hậu. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia công tác văn hóa, làm phóng viên báo chí ở chiến khu Việt Bắc và là thành viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Ngoài viết văn, ông còn nổi tiếng với vai trò diễn viên với các vai diễn chân chất, khắc khổ, đặc biệt là vai Lão Hạc trong phim “Làng Vũ Đại ngày ấy”. Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

Hầu hết các tác phẩm của ông đều khắc họa chân thực, cảm động cuộc sống lam lũ, tâm hồn mộc mạc mà sâu sắc của người nông dân Việt Nam. Ngòi bút của ông chân thực, tinh tế, giản dị nhưng sâu sắc, chứa đựng tình thương và niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của con người lao động. Ông khám phá và trân trọng những vẻ đẹp tâm hồn tiềm ẩn, những tình cảm thuần hậu nguyên thủy, tình yêu thương và khát vọng sống mãnh liệt của người lao động dù trong hoàn cảnh bi thảm nhất. Ông am hiểu sâu sắc phong tục, đời sống, vẻ đẹp tâm hồn và cả những bi kịch của người dân quê, qua đó khắc họa chân thực cuộc sống nghèo khổ, tăm tối, đặc biệt là trong nạn đói năm 1945, nhưng luôn tập trung làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn và tình người trong hoàn cảnh bi đát. Tác phẩm của ông luôn chứa đựng niềm yêu thương, sự trân trọng đối với những phẩm chất cao quý của người lao động.

Văn ông thấm đẫm chất hiện thực nhưng không hề bi quan, mà luôn lấp lánh ánh sáng nhân văn. Ông luôn tìm thấy và khẳng định vẻ đẹp của con người ngay trong ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Ông có biệt tài đi sâu vào nội tâm, khắc họa tâm lý nhân vật một cách chân thực, tinh tế và sinh động, đặc biệt là những giằng xé nội tâm. Ông thường đặt nhân vật vào những tình huống éo le, nghịch cảnh để làm nổi bật chiều sâu tính cách và bản chất nhân văn. Văn phong của ông giản dị, mộc mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân Bắc Bộ, giàu hình ảnh và chất dân dã nhưng chan chứa tình người, thể hiện niềm tin vào phẩm giá và nghị lực sống của con người Việt Nam. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông có thể kể đến như Làng (1948) – khắc họa tình yêu làng quê gắn liền với lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân tản cư, Vợ nhặt (1948/1954) – phản ánh nạn đói thảm khốc năm 1945, nhưng đồng thời ca ngợi khát vọng sống mãnh liệt và lòng nhân ái của con người trong nghịch cảnh, Ông lão hàng xóm, Nên vợ nên chồng…

Tác phẩm của Kim Lân luôn toát lên tình thương yêu con người và niềm tin vào cuộc sống. Ông không né tránh hiện thực nghèo đói, cơ cực, nhưng luôn tìm thấy vẻ đẹp trong tâm hồn người dân quê dù trong hoàn cảnh bi thương nhất, họ vẫn giữ nhân cách, tình thương và khát vọng hạnh phúc. Với ngòi bút chân thành, tinh tế và đầy nhân ái, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị sâu sắc về hiện thực và nhân đạo.

Đây chỉ là một số gương mặt tiêu biểu trong kho tàng văn học đồ sộ của Việt Nam. Mỗi người đều đóng góp một phong cách, một đề tài độc đáo, làm nên sự đa sắc màu cho nền văn học nước nhà.

Một số nội dung khác tại BlogAnChoi:

LE SSERAFIM bùng nổ toàn cầu với “SPAGHETTI” – Lần đầu lọt Top 50 BXH Anh cùng j-hope (BTS)

Top 10 tác phẩm văn học nước ngoài hay nhất
 
Tags
None
8
0
0

Cộng đồng nổi bật

Work-life balance

5
Người theo dõi
62
Bài đăng

Tin Tức Du Lịch

5
Người theo dõi
4K
Bài đăng

Mẹo du lịch

5
Người theo dõi
102
Bài đăng

Văn hoá & Tập tục

5
Người theo dõi
13
Bài đăng

Khám phá Địa danh

5
Người theo dõi
494
Bài đăng

Lịch sử & Sự kiện

5
Người theo dõi
3
Bài đăng

Vận hành dịch vụ

4
Người theo dõi
0
Bài đăng

Khởi nghiệp du lịch

4
Người theo dõi
0
Bài đăng

Mẹo Hay

4
Người theo dõi
178
Bài đăng

Trung Tâm Điều Hành

4
Người theo dõi
0
Bài đăng
Top